Từ lần xuất bản đầu tiên và duy nhất năm 2001, cuốn sách đã tuyệt bản này là nguồn tư liệu vô giá về một giai đoạn dày đặc biến động của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20. Đọc lại những ghi chép của nhà thơ Trần Dần (1926-1997) về thời kì Cải cách Ruộng đất và Nhân văn-Giai phẩm, tôi vẫn kinh ngạc bởi sự thành thực tận cùng, thành thực đến tàn nhẫn khắc nghiệt, của ông với chính bản thân mình. Cuộc vật lộn của ông vói thòi đại không phải chỉ là một bi kịch từ vị thế nạn nhân mà đa tầng, đa diện hon nhiều: Ông cũng là một tác nhân và truớc hết là một chứng nhân lỗi lạc, với một khả năng quan sát, phân tích, ghi nhận, diễn đạt hiếm có và một lí tuởng sục sôi cháy bỏng với nghệ thuật văn chuông.
Ghi 1954-1960 của Trần Dần đuợc tái bản đúng dịp tuỏng niệm 25 năm ngày ông qua đòi. Tôi đã biên tập và hiệu đính bản in năm 2001, bổ sung một số chú thích và chinh sửa một số chi tiết căn cứ trên những hiểu biết ngày càng đuợc mở rộng trong thời gian qua, hi vọng có thể chính thức thay thế nhũng phiên bản trôi nổi không rõ nguồn gốc trên mạng.
Tôi tin rằng Trần Dần rất vui lòng thấy bản PDF cúa cuốn sách này là sở hữu chung của cộng đồng độc giả tiếng Việt mà ông đã góp phân gây dựng bằng tài năng và số phận khác thuờng cúa mình.
Berlin, 17/1/2022
Phạm Thị Hoài
Lời nói đâu cho lân xuất bản đâu tiên năm 2001
"Thế là tôi mất bẩy năm kể từ ngày hoà bình bắt đâu sinh sự cho đến ngày xoá án... Bẩy năm trong văn học có nghĩa ỉý gì? Một cái chớp mắt. Bẩy năm trong đời một con người thì có nghĩa lý lắm! Chớp mắt mãi không xong." Trần Dần ghi như thế ngày 7/7/1958 khi nhận kỷ luật treo bút ba năm. Như thể ông đã lường trước cái "mãi không xong” của ba năm rồi sẽ thành ba m ươi năm, và một lần nữa lại thu vén sao cho cái mất càng ngày càng phình ra quái gở của số phận mình có thể đút vừa lỗ kim bé tí cứa hy vọng được. "Được cái hoạn nạn" quả nhiên là lời tổng kết cuối cùng của ông, người mê biện chứng và nghiện nghịch lý, về "ván đời" lạ lùng của mình.
Những ghi chép của Trần Dần tập hợp trong sách này là chứng chỉ tự cấp về bây năm mở ra và quyết định cái thành quả hoạn nạn đó. Với chúng ta, đó là những văn liệu và sử liệu vô giá về một giai đoạn văn chương và lịch sử cho đến nay vẫn xếp sổ, nếu quả còn có sổ. Vói Trần Dần, đó là phần mở đầu "tác phẩm dành cho một người", tác phẩm bất đắc dĩ mà thành đồ sộ và gay câh nhất của văn nghiệp ông, khi "ghi trở nên một hình phạt", khi ông "bắt tội" mình, cưỡng bức mình vào một "chế độ ghi sổ tay" ba muoi năm ròng rã.
Tôi không có cách nào khác là tự ý chọn lựa trong di cảo văn học của Trần Dần từ 5 tập sô tay dày đặc nhũng dòng ghi vốn không dành cho công chúng đê’ biên soạn sách này. Những đoạn bỏ, đánh dấu [...], là những đoạn tôi cho rằng riêng tư đáng được ở yên, hoặc liên quan tói những nguôi và việc chưa vượt cái mốc thời gian ba năm sau khi Trần Dần qua đời, hoặc là nhũng đoạn dùng vào một sách khác thì hợp chỗ hon. Những đoạn đánh dấu (...) là những đoạn tôi đành để trống vì không đọc ra mặt chữ hoặc còn chưa hiểu rõ ý nghĩa. Ngoài ra tôi đã phải quyết định, tuy không hoàn toàn tin tưởng rằng đúng, là chuyển một phần lớn phép dùng chính tả riêng của Trần Dần sang phép chính tả thông dụng. Sở dĩ như vậy, vì tôi cho rằng phép chính tả trong nhũng ghi chép này một phần là thói quen còn nhiều ngẫu nhiên của thuở ấy, một phần nhằm mục đích ghi cho nhanh, chứ chưa đóng vai trò tất yếu như trong một số tác phẩm sau này của Trần Dần. Còn lại, tôi giữ nguyên văn bản như vậy: cách viết tắt tên người, tên cơ quan, xuống dòng, gạch dưới, lối ngắt câu, lối dùng lời thoại, v.v..., không sửa đổi, chinh đốn điều gì. Việc tập họp tài liệu, biên soạn các phần tiểu sử, phụ lục, chú thích và thư mục do nhiều người góp sức song không tránh khỏi thiếu sót cần bổ sung dần. Sự bổ sung đầy đủ nhất là tiếp tục công bố những phần tiếp theo trong "tác phẩm dành cho một người" này.
Như thế, kết quả của hình phạt vói một người lại có thể là quà tặng không ngờ tới bao nhiêu người khác.
Berlin, tháng Tư năm 2000
Phạm Thị Hoài