Hà Hương Phong Nguyệt |
|
Tác giả | Lê Hoằng Mưu |
Bộ sách | |
Thể loại | Tiểu thuyết |
Tình trạng | Hoàn Thành |
Định dạng | eBook mobi pdf epub azw3 |
Lượt xem | 123 |
Từ khóa | eBook mobi pdf epub azw3 full Lê Hoằng Mưu Tiểu Thuyết Văn Học Việt Nam Văn Học Phương Đông |
Nguồn | |
Hà Hương phong nguyệt của nhà văn “khét tiếng” Lê Hoằng Mưu được in trên báo Nông cổ mín đàm từ năm 1912 với tên đầu tiên là Truyện nàng Hà Hương. Tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu từng được nhà nghiên cứu Bằng Giang coi là tiểu thuyết chữ quốc ngữ đầu tiên ở Nam Bộ, đáng kể là một tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên do hoàn cảnh tư liệu nên nhiều năm qua rất ít người được tiếp xúc với văn bản đầy đủ của tác phẩm, nên việc tái bản quyển tiểu thuyết này là một điều cần thiết.
Về văn bản, Hà Hương phong nguyệt được in feuilleton trên báo Nông cổ mín đàm từ số 19 ngày 20.7.1912 đến số 53 ngày 19.6.1915 (trở xuống viết tắt là bản in báo). Đến 1914 trở đi bắt đầu được in thành sách, trong đó phần in báo năm 1912 có khác biệt ít nhiều, tức tác giả có gia công sửa chữa, thay đổi.
Bản Hà Hương phong nguyệt in sách (trở xuống viết tắt là bản in sách) có tất cả 6 tập: Tome I (Octobre 1914), Tome II (Mars 1915), Tome III (Juin 1915), Imprimèrie Saigonnaire L. Royer, Tome IV (Novembre 1915), Tome V (Avril 1916), Tome VI (Juin 1916), Imprimèrie J. Viết, trong đó Tome I và Tome II đề tên tác giả là Lê Hoằng Mưu và Nguyễn Kim Đính, còn từ Tome III trở đi chỉ đề tên Lê Hoằng Mưu. Nhưng Tome VI chỉ in có đoạn đầu hồi “Con Bảy Nhỏ với Thoàn than tức, Anh Cô mừng nỗi ức đặng minh”, so với bản in báo chỉ mới tới đoạn trên Nông cổ mín đàm số 49 ngày 1.6.1915. Tuy cuối Tome VI có cho biết “Muốn rõ Con Bảy Nhỏ với Thoàn than tức, Anh Cô mừng nỗi ức đặng minh, hãy xem qua cuốn thứ bảy thì rõ” nhưng trong thực tế Tome VII không được in ra, tức bản in sách còn thiếu. Mặt khác bản in báo cũng chưa chấm dứt mà Nông cổ mín đàm hiện lại không được lưu giữ đầy đủ ở Việt Nam, đây là lý do chủ yếu khiến nhiều năm quaHà Hương phong nguyệt chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu một cách rốt ráo.
Quan tâm tới tác phẩm này, nhiều năm qua chúng tôi đã lưu ý tìm kiếm nhưng chỉ đọc được Tome III bản in sách ở Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội. Về bản in báo chúng tôi cũng đã tìm đọc trên báo giấy và microfilm ở Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh nhưng các số báo Nông cổ mín đàm được lưu giữ từ 1912 ở đây cũng không đầy đủ. Đến tháng 10.2014 chúng tôi mới tìm được sáu tập đầu bản in sách và báo Nông cổ mín đàm năm 1915 ở Thư viện Quốc gia Pháp. Sáu tập này cùng với phần tiếp theo trên Nông cổ mín đàm 1915 cho thấy thông tin về Hà Hương phong nguyệt trong các công trình trước nay đều ít nhiều không chính xác. Cho nên chúng tôi tiến hành chỉnh lý và chú thích bước đầu toàn bộ Hà Hương phong nguyệt, với mong muốn góp phần xác lập cơ sở văn bản – tư liệu cho việc tìm hiểu tác phẩm này.
Hà Hương phong nguyệt là tiểu thuyết đầu tay của Lê Hoằng Mưu, một tác giả có sách “bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm” như Lãng Tử viết trên báo Mai sau này. Việc sáng tác Hà Hương phong nguyệt là một phản ứng của một nhà văn Việt Nam trước cơn sốt dịch “truyện Tàu” lúc đó “Dòm thấy trong xứ cứ ôm truyện Tàu mà dịch mãi, chưa thấy ai viết bộ tiểu thuyết nào cả. Tưởng rằng dầu hay dầu dở cũng của mình. Tôi khởi đầu viết bộ Hà Hương phong nguyệt”. Tác phẩm được đăng trên báo Nông cổ mín đàm từ năm 1912 với nhan đề Truyện nàng Hà Hương đến năm 1915 (chưa kết thúc). Năm 1914, tác phẩm này được nhà in Saigonnaise L. Royer xuất bản với tên là Hà Hương phong nguyệt truyện (6 tập). Ở bìa hai tập đầu, chỗ ghi tên tác giả, bên cạnh Lê Hoằng Mưu còn có tên của Nguyễn Kim Đính, vốn là người rất thân thiết với Lê Hoằng Mưu. Hai ông từng cộng tác trong vai trò chủ nhiệm, chủ bút của nhiều tờ báo quốc ngữ thời đó. Từ tập ba trở đi, tên tác giả chỉ còn lại Lê Hoằng Mưu.
Hiện thực được phản ánh trong Hà Hương phong nguyệt khá rộng lớn, có thể coi như một hình ảnh rút gọn của xã hội Nam Bộ trước Thế chiến thứ nhất. Trong tác phẩm có các gia đình giàu lẫn những gia cảnh nghèo, có cảnh Sài Gòn đô hội phồn hoa bên cạnh cảnh nghèo hèn thôn dã, có cảnh tòa xử án, trạng sư biện hộ… Số lượng và kết cấu nhân vật trong tác phẩm cũng rất đông đảo, đa dạng, từ thường dân cho đến quan chức. Có nàng Hà Hương xinh đẹp, buông thả bên cạnh một Nguyệt Ba đẹp người, đẹp nết. Có Nghĩa Hữu đam mê sắc dục, ích kỷ bên cạnh một Ái Nghĩa chung tình. Có cả người nước ngoài như khách trú người Hoa, anh Bảy Chà Và người gốc Ấn, những trạng sư người Pháp,…
Tác phẩm của Lê Hoằng Mưu so với những tác phẩm văn xuôi trước đó nổi bật trên hai yếu tố là phạm vi không gian và khuynh hướng phân tích tâm lý. Đây là một thế mạnh của Lê Hoằng Mưu so với các nhà văn Nam Bộ khác cùng thời vốn ít chú ý đến vấn đề này. Việc Hà Hương phong nguyệt bị dư luận lên án mạnh mẽ, đó là bởi diễn ngôn tính dục mới mẻ của tác phẩm này. Việc chuyển tải một quan niệm không truyền thống về tình yêu, luân lý trong thời điểm nhân dân Nam Bộ cần cổ xúy cho đạo đức truyền thống, cho tình yêu nước để có sức mạnh chiến đấu với giặc ngoại xâm hơn là những tình cảm cá nhân ngang trái, buông thả là không hợp thời. Tiểu thuyết này quá mới mẻ trong thời điểm ảnh hưởng của văn minh phương Tây vẫn chưa thật sự lấn át được những quan niệm khắt khe của Nho giáo về tình yêu nam nữ. Tình yêu cá nhân mang tính nhục thể và dục vọng thầm kín của con người vẫn là những điều khá xa lạ đối với những quan niệm truyền thống đương thời mặc dù ngòi bút của nhà văn đã khá uyển chuyển. Đã có một cuộc bút chiến dữ dội xung quanh tác phẩm này. Nhiều nhà văn, nhà báo đã phê phán kịch liệt tác phẩm này với tác giả của nó. Trước áp lực của dư luận, cuối cùng Hà Hương phong nguyệt đã bị chính quyền thuộc địa ra lệnh tịch thu và tiêu hủy.
Bên cạnh sự táo bạo khi đề cập đến vấn đề tính dục, Hà Hương phong nguyệt còn hấp dẫn người đọc thời đó bởi thể loại giàu nhạc điệu của tác phẩm. Nguyễn Liên Phong đã từng nhận xét về văn chương Lê Hoằng Mưu trong Điếu cổ hạ kim thi tập “Hơi nôm na sắp đặt lanh lợi có duyên, người ta xem đến không nhàm mỏi”.
Hà Hương phong nguyệt ra đời vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX, vì thế vẫn còn mang một số hạn chế của thời đại. Ghi là Roman Fantastique, nhưng câu văn của Hà Hương phong nguyệt rất gần với thơ, với văn biền ngẫu. Việc ép vần không hiếm trong tác phẩm, điển cố điển tích cũng được dùng với không ít sai sót.
Nhưng với dung lượng đáng kể, với hệ thống nhân vật đa dạng, ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý khá đặc sắc, tác phẩm này của Lê Hoằng Mưu xứng đáng là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Nam Bộ, của Việt Nam, như Bình Nguyên Lộc và Bằng Giang đã khẳng định. Trên nhiều phương diện, tác phẩm này là bằng chứng về những thay đổi của tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng mà cũng là của tiểu thuyết Việt Nam nói chung trên con đường hiện đại hóa, những thay đổi mà học giới còn cần tiếp tục tìm hiểu rộng hơn, sâu hơn.
Bản Hà Hương phong nguyệt được tái bản lần này, ngoài Lời nói đầu và Lời bạt, gồm hai phần chính: phần đầu là văn bản Hà Hương phong nguyệt, phần sau là Phụ lục gồm một số tư liệu liên quan.
Về nội dung, Hà Hương phong nguyệt gồm hai phần ít có liên hệ với nhau. Phần đầu chủ yếu nói về những cuộc phiêu lưu tình ái của nhân vật Hà Hương trong đó chủ yếu là quan hệ với chồng trước là Nghĩa Hữu. Phần sau chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Ái Nhơn, con trai của Hà Hương với người chồng sau là Ái Nghĩa. Phần sau in trên báo còn dở dang, tuy nhiên chúng tôi vẫn giới thiệu toàn bộ trong quyển sách.
Văn bản Hà Hương phong nguyệt trong quyển sách được chia thành ba phần, phần 1 là bản in trên Nông cổ mín đàm năm 1912, phần 3 là bản in trên Nông cổ mín đàm năm 1915. Sở dĩ chúng tôi giới thiệu hai phần này thay bản in sách vì đây là bản được công bố đầu tiên từ 1912, có giá trị khác với bản in sách từ 1914. Bản này có lối hành văn hiện đại hơn so với bản in sách (có lẽ do chiều theo thị hiếu của độc giả lúc đó nên khi tập hợp phần đã in feuilleton trên báo lại để in sách, Lê Hoằng Mưu đã chuốt gọt lại khá nhiều theo lối văn vần mang nhiều nhạc điệu hơn). Ví dụ hai đoạn sau:
“Qua năm 1870, trong nhà dư dả, có trâu có ruộng, có tớ gái tớ trai, đặt nợ cho vay cùng làng khắp xóm. Từ buổi nghèo cho đến khi có của, vợ chồng Trần Quế cứ giữ mực chơn chất thật thà, chẳng hề làm cách làm kiêu, nên cả làng người yêu kẻ mến” (bản in báo).
“Tới năm 1870 trong nhà đã khá, dư để dư ăn, sắm ruộng mua trâu, cho vay đặt nợ, trong có đầy có tớ, ngoài sẵn mọi sẵn tôi. Cuộc đời khi giàu chật khách tới lui, lúc khó không người thăm viếng” (bản in sách).
Phần 2 là bản in sách từ 1913 đến 1914. Đây là điều đáng tiếc, vì dù rất cố gắng trong việc sưu tầm, hiện chúng tôi chỉ tìm được các số báo Nông cổ mín đàm những năm 1912 và 1915, còn thiếu các số báo trong hai năm 1913, 1914, vì vậy mà phần 2 bắt buộc phải theo bản in sách. Hy vọng sau này khi sưu tầm đủ các số báo, chúng tôi sẽ giới thiệu được trọn vẹn bản in trên báo.
Do điều kiện lịch sử về ngôn ngữ và chính tả, thông tin và kỹ thuật đương thời, nên bản in trên Nông cổ mín đàm và bản in sách đều có rất nhiều sai sót và bất cập cần điều chỉnh, xử lý. Về vấn đề này, quyển sách theo những nguyên tắc sau:
1. Về chính tả. Những sai sót hay lối viết không còn phù hợp đều được điều chỉnh theo chính tả hiện hành, ví dụ Bến-tre, bỏ lẩy, chắt lưởi, tang tát, thăm viến, sữa san, vuôn tròn… được điều chỉnh thành Bến Tre, bỏ lẫy, chắc lưỡi, tan tác, thăm viếng, sửa sang, vuông tròn. Những từ Việt Hán bị ghi lầm theo tập quán ngữ âm Nam Bộ như luy tiết, tư dung, sằn dã thành ly tiếc, tư giun, sằng giã cũng được điều chỉnh như vậy và không chú thích. Tác phẩm được viết bằng văn vần, nhiều lúc vì ép vần làm từ ngữ bị sai lạc như tường ghi là tàng, sự ghi là sạ, ái ốc cập ô ghi là ái ô cập ốc cần phải chỉnh lý hay chú thích, với những sai lạc này thì chúng tôi chú thích rõ về từng trường hợp.
Về việc ghi những từ có phần vần là i/y, chúng tôi theo quan điểm chính tả của nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh theo đó các từ thuần Việt đều nhất loạt ghi với i, các từ Việt Hán mới ghi với cả i lẫn y, trong đó các từ thuộc Tam đẳng hợp khẩu như quí giá, ma quỉ thì nhất loạt ghi với i.
2. Về từ ngữ. Tác phẩm viết bằng ngôn ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, có nhiều từ cổ, từ địa phương như kiếng (cánh), mầng (mừng), miêng (minh), nâng (nưng), nhẫn (tới), nhẫng (những)… cần được chú thích, giải thích. Những trường hợp loại này và những từ Việt Hán có trên một âm đọc như cát – kiết, duyên – doan – duơn, đỉnh – đảnh, phương – phang, thuyền – thoàn, vũ – võ, quí – quới phổ biến trong phương ngữ Nam Bộ thì chúng tôi giữ nguyên trạng để người đọc thấy rõ cái “bản lai chân diện mục” về ngôn ngữ của tác phẩm. Tất cả các từ ngữ, thành ngữ, điển tích cần thiết chỉ được chú thích trong lần xuất hiện đầu tiên.
Để chú thích từ ngữ trong Hà Hương phong nguyệt, chúng tôi tham khảo các từ điển, tự điển như Dictionnaire Élémentaire Annamite – Français của Le Grand de la Liraye (Imprimerie Impérial, Sài Gòn, 1868), Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của năm 1895 – 1896 (bản in Khai Trí, Sài Gòn, 1974), Dictionnaire Annamite – Français của François Joseph Génibrel (Imprimerie de la Mission à Tân Định, Sài Gòn, 1898), Dictionnaire Annamite – Français của Jean Bonet (Imprimerie Nationale, Paris, 1899 – 1900) và một số tài liệu có liên quan.
3. Về bố cục. Đây là một vấn đề khá phức tạp. Phần in feuilleton trên báo cũng như phần in sách đều có những điểm không hợp lý, có khi theo mạch truyện mà xuống dòng, có khi vì khuôn khổ cột báo trang sách nên không hề xuống dòng, câu đối thoại xen lẫn với câu kể chuyện gần như không có ký hiệu để phân biệt rõ ràng. Mặt khác tác phẩm được viết theo lối văn vần, nhưng trong nhiều trường hợp bản in có những dấu phẩy, chấm phẩy hay chấm hỏi, chấm than… làm “lệch vần sai nhịp”. Chúng tôi xử lý theo nguyên tắc đối với câu đối thoại và câu độc thoại thì đưa vào giữa hai dấu ngoặc kép, bỏ hết các dấu chấm phẩy mà qui tất cả thành dấu phẩy hay dấu chấm, xử lý các dấu phẩy, chấm than, chấm hỏi… theo nhịp và vần của câu văn, mặt khác căn cứ vào mạch truyện đồng thời châm chước độ dài ngắn của đoạn văn mà chấm câu, xuống dòng để người đọc tiện theo dõi.
Trong nguyên bản Hà Hương phong nguyệt cả bản in báo lẫn bản in sách đều có một số chú thích hay ghi thêm của Lê Hoằng Mưu, có khi xen vào mạch truyện, có khi xếp ở cuối trang. Để người đọc tiện theo dõi, trong bản in lần này chúng tôi nhất loạt đưa lên phần chính văn, đặt vào giữa hai dấu ngoặc đơn và ghi thêm ba chữ LHM để phân biệt.
Trong quá trình sưu tầm Hà Hương phong nguyệt, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ của Thư viện Quốc gia Pháp, Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, thư viện gia đình của GS. Nguyễn Văn Sâm (Hoa Kỳ). Trong việc chỉnh lý và giới thiệu tác phẩm, chúng tôi cũng đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều bạn bè, đồng nghiệp như Đoàn Ánh Loan, Đặng Thái Minh, Cao Tự Thanh. Nhân dịp quyển sách được ra mắt người đọc, chúng tôi xin gởi tới các anh chị lời cảm ơn chân thành.
Dù đã rất cố gắng, nhưng việc chỉnh lý văn bản và chú thích từ ngữ của Hà Hương phong nguyệt chắc chắn sẽ không thể hoàn hảo. Rất mong nhận được những góp ý, chỉ giáo của người đọc gần xa.
Tháng 2.2018
Võ Văn Nhơn
***
Tổng quan về xuất xứ và quá trình xuất bản:
Nội dung chính:
Phong cách nghệ thuật:
Phản ứng của dư luận và số phận tác phẩm:
Điểm mạnh:
Hạn chế:
Ý nghĩa và tầm quan trọng:
Kết luận: