Trên Biển Khơi, Dưới Đá Thẳm |
|
Tác giả | Susan Cooper |
Bộ sách | Bóng Tối Trỗi Dậy |
Thể loại | Sách Nói |
Tình trạng | Sách Nói |
Định dạng | Sách Nói |
Lượt xem | 2197 |
Từ khóa | Audiobook Sách Nói mp3 full Susan Cooper Bóng tối trỗi dậy Kỳ ảo Phiêu lưu Tiểu thuyết Văn học phương Tây |
Nguồn | |
“Ông ấy đâu nhỉ?”
Xuống khỏi tàu, Barney nhảy tưng tưng lo lắng, nhìn quanh đám đông những khuôn mặt trắng bệch đang lũ lượt đổ về phía thanh chắn soát vé của ga St. Austell. “Em chẳng thấy ông ấy đâu cả. Ông ấy có chờ ở đó không nhỉ?”
“Tất nhiên là ông ấy phải chờ ở đó chứ”, Simon nói, cố giữ chặt lấy cái bọc vải dài đựng cần câu cá của bố. “Ông ấy đã hứa sẽ đón nhà mình mà. Bằng ôtô hẳn hoi.”
Đằng sau họ, đầu tàu chạy bằng diesel rúc lên như một con cú khổng lồ, và cả đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh.
“Các con ở nguyên tại chỗ một phút đi,” bố nói, tay khệ nệ xách một đống vali. “Ông Merry không biến mất đâu. Để mọi người đi bớt đã.”
Jane khịt khịt mũi vẻ sung sướng. “Em ngửi thấy mùi biển đấy!”
“Chúng ta còn cách biển cả tỉ dặm mà,” Simon nói vẻ trịch thượng.
“Em không biết. Rõ ràng em có ngửi thấy mùi biển.”
“Ông Merry đã nói là làngTrewissick cách sân ga St Austell năm dặm[1] cơ mà.”
“Ôi, ông ấy đâu?” Barney vẫn suốt ruột nhảy lò cò trên sân ga xám xịt đầy bụi, chăm chú nhìn vào những tấm lưng dần khuất đi cứ chắn mất tầm mắt nó. Rồi đột nhiên, nó đứng im, nhìn chằm chằm xuống dưới. “Ê - nhìn kìa.”
Chúng nhìn theo. Thằng bé đang tròn mắt ngó một cái vali lớn màu đen nằm giữa một rừng chân bước vội vã.
“Có gì hay ho đâu?” Jane hỏi.
Nhưng rồi chúng thấy chiếc vali có hai cái tai màu nâu vểnh lên và một cái đuôi nâu dài đang ve vẩy. Người chủ xách cái vali lên và đi khỏi, còn con chó đứng đằng sau vali bị bỏ lại chơ vơ một mình, nhìn quanh quẩn trên sân ga. Đó là một con chó mình dài, gầy nhẳng như chó hoang và ở những chỗ ánh nắng chiếu vào, bộ lông của nó ánh lên màu đỏ sẫm.
Barney huýt sáo và chìa tay ra.
“Không được đâu con,” mẹ nhắc, tay nắm chặt mấy cây chổi vẽ đang đâm tua tủa ra ngoài túi như túm cần tây.
Nhưng trước cả khi Barney huýt sáo, con chó đã bắt đầu lon ton chạy lại phía cả nhà, mau lẹ và cả quyết, cứ như thể nhận ra bạn cũ. Nó nhảy cẫng lên một vòng xung quanh họ, hếch cái mõm dài đo đỏ lên từng người, rồi dừng lại bên cạnh Jane và liếm tay cô bé.
“Nó đẹp đấy chứ?” Jane cúi xuống cạnh con chó và vuốt ve bộ lông dài mượt như nhung ở cổ nó.
“Con yêu, cẩn thận đấy,” mẹ nói. “Chúng ta sẽ phải để nó lại thôi. Có lẽ nó là của ai đó ở đằng kia.”
“Con ước gì nó là của nhà mình.”
“Nó cũng muốn thế đấy ạ,” Barney nói. “Nhìn này.”
Nó gãi gãi cái đầu màu đỏ hoe và con vật gừ gừ trong cổ họng vẻ thích thú.
“Không được,” bố nói.
Đám đông giờ đã thưa hơn, và qua thanh chắn, họ có thể nhìn thấy bầu trời xanh quang đãng phía trên sân ga.
“Tên nó ghi trên vòng cổ đây này,” Jane nói, em vẫn ngồi bên con chó. Em loay hoay mân mê miếng bạc trên cái đai nặng trịch. “Trên này ghi Rufus. À, còn nữa... Trewissick. Này, nó đến từ khu làng đấy!”
Nhưng khi em ngẩng đầu lên thì mọi người bỗng đã biến đâu mất hết. Em đứng bật dậy, chạy theo cả nhà vào khoảng nắng chan hòa, và trong chốc lát em nhìn thấy những gì mà cả nhà cũng vừa thấy: cái dáng cao cao quen thuộc của Ông Merry đang đứng ngoài sân ga đợi họ.
Họ ùa lại vây quanh ông, tranh nhau ríu rít như bầy sóc dưới gốc cây. “A, cả nhà đây rồi,” ông nói không chút khách sáo, nhìn họ từ dưới cặp lông mày bạc rậm rạp và nhoẻn miệng cười.
“Cornwall thật là tuyệt,” Barney nói, mừng quýnh cả lên.
“Cháu còn chưa được thấy đâu,” Ông Merry nói.
“Cháu có khỏe không, Ellen?” Ông cúi xuống và hôn nhẹ vào má mẹ. Luôn luôn là như vậy, ông đối với mẹ như thể ông quên mất mẹ đã là người lớn. Mặc dù ông không phải là chú ruột của mẹ mà chỉ là bạn của ông ngoại nhưng ông đã gần gũi với gia đình từ nhiều năm nay đến mức bây giờ họ cũng không còn nghĩ xem ban đầu ông từ đâu đến nữa.
Chẳng ai hiểu rõ về Ông Merry và cũng không ai dám hỏi bao giờ. Trông ông chẳng giống chút gì với tên gọi[2]. Dáng ông cao, thẳng, mái tóc dày, bạc phơ và bù xù. Trên khuôn mặt nâu nghiêm nghị là cái mũi khoằm hẳn xuống như cây cung bị bẻ cong và đôi mắt đen, sâu thẳm.
Chẳng ai biết ông bao nhiêu tuổi. Bố nói, “Ông già bằng núi đồi ấy,” và trong thâm tâm, mấy đứa nhỏ đều cảm thấy đúng. Ở Ông Merry có một cái gì đó, như những quả đồi, như biển hay bầu trời, cái gì đó rất cổ xưa, nhưng không hề có tuổi và bất tận.
Luôn luôn, hễ ông có mặt ở đâu thì những điều kỳ lạ xuất hiện ở đó. Ông thường biến mất một thời gian dài rồi đột nhiên bước qua ngưỡng cửa nhà Drew như thể ông chưa bao giờ đi xa, và thông báo rằng ông vừa mới tìm thấy một thung lũng bị lãng quên ở Nam Mỹ, một pháo đài La Mã ở Pháp hay một con tàu từ thời Viking bị cháy và đắm ở vùng biển nước Anh. Báo chí thường đăng nhiều câu chuyện hấp dẫn về những việc ông đã làm. Nhưng mỗi khi các phóng viên đến gõ cửa thì ông đã lại biến mất, quay về với sự yên bình ở ngôi trường đại học tĩnh mịch nơi ông dạy học. Cả nhà sẽ thức dậy vào một buổi sáng nào đó, gọi ông xuống ăn sáng và thấy ông đã không còn ở đó nữa. Và sau hàng mấy tháng trời họ chẳng nghe được tin tức gì về ông, thì lại thấy ông xuất hiện ở cửa. Thật khó mà tin được mùa hè này, trong ngôi nhà mà ông đã thuê cho họ ở Trewissick, cả nhà lại ở cùng với ông cả bốn tuần liền.
Với ánh nắng chiếu lấp lánh trên mái tóc bạc phơ, Ông Merry xách hai cái vali to nhất lên, mỗi tay một chiếc và rảo bước băng qua sân ga về phía một cái ôtô.
“Các cháu thấy thế nào?” Ông hỏi đầy vẻ tự hào.
Theo sau ông, họ nhìn chăm chú. Đó là một chiếc xe to, chắn bùn đã gỉ, lớp sơn bong tróc và bùn đóng thành bánh trên trục xe. Một làn hơi nước đang cuộn lên từ bộ phận tản nhiệt.
“Hết sảy!” Simon nói.
“Hừm,” mẹ ậm ừ.
“Ơ, Chú Merry,” bố vui vẻ nói đùa, “cháu hy vọng chú đã mua bảo hiểm rồi.”
Ông Merry phì một tiếng. “Vớ vẩn. Chiếc xe tuyệt vời đấy. Chú thuê của một người nông dân. Dù sao thì nó cũng chở được tất cả chúng ta. Các cháu lên đi.”
Jane ngoái nhìn lại lối vào ga vẻ nuối tiếc khi leo lên xe theo sau cả nhà. Con chó lông đỏ đang đứng trên vỉa hè nhìn họ, cái lưỡi đỏ dài ngoẵng đung đưa giữa hai hàm răng trắng.
Ông Merry gọi: “Lại đây, Rufus.”
“Ôi!” Barney reo lên sung sướng khi bốn cái chân dài và cái mõm ướt sượt phóng vọt qua cửa xe, đâm xình vào sườn nó. “Con chó của ông ạ?”
“Lạy trời không phải vậy,” Ông Merry nói. “Nhưng ông tin nó sẽ là của các cháu trong tháng tới. Ông thuyền trưởng không mang nó đi nước ngoài được, vì thế Rufus ở lại trong Ngôi nhà Xám.” Nói rồi ông cúi người ngồi vào ghế lái xe.
“Ngôi nhà Xám ư?” Simon hỏi. “Gọi như thế à, ông? Tại sao vậy ạ?”
“Cứ đến rồi biết.”
Động cơ xe nấc một tiếng rồi gầm lên, và thế là họ lên đường. Xuyên qua các phố và ra khỏi thành phố, họ cười nói ồn ào trong chiếc xe lắc lư, cho đến khi những hàng rào thế chỗ cho các ngôi nhà, những hàng rào cây hoang dại, rậm rịt, mọc cao ngút và xanh rì dọc theo con đường uốn lượn quanh co trên sườn đồi, và đằng sau họ, cỏ trải dài tít tắp đến tận chân trời. Trên nền trời, họ chẳng thấy gì ngoài những thân cây trơ trọi, còi cọc, bị làn gió thổi từ biển bẻ cong, và những vỉa đá màu vàng xám.
“Kia kìa,” Ông Merry hét to, át cả tiếng ồn ào. Ông quay đầu lại, phẩy một tay khỏi vô lăng làm bố phải khẽ kêu lên và lấy tay che mắt. “Bây giờ cả nhà đã đến Cornwall rồi đấy. Cornwall thật sự. Lorges ở trước mặt các cháu kìa.”