DTV eBook - Mượn Sách Truyện Tiểu Thuyết Văn Học Miễn Phí Tải PRC/PDF/EPUB/AZW

Tuyển Tập Jorge Luis Borges

Tác giả Jorge Luis Borges
Bộ sách
Thể loại Tuyển tập
Tình trạng Hoàn Thành
Định dạng eBook mobi pdf epub azw3
Lượt xem 7731
Từ khóa eBook mobi pdf epub azw3 full Jorge Luis Borges Tuyển Tập Truyện Ngắn Tạp Văn Thơ Tiểu Thuyết Văn học Argentina Văn học Nam Mỹ
Nguồn tve-4u.org
akishop
Ủng hộ để truy cập kho ebook Google driveTẠI ĐÂY
Jorge Luis Borges đã để lại một công trình văn học căn | bán trong đó ông chỉ choihaikhái niệm then chốt: thời gian và không gian: sự hòa trộn giữa thời - không gian thực với thời không gian áo, tạo nên một thực thể văn | học phong phú đa dạng có sức hấp dẫn và do đó nó là hình bóng chân thực của cuộc sống thực tế Mỹ Latin - một mien đất trùng phức nhiều lứa tuoi nhân loại trong ngày hôm nay một miền đất chung Sòng Tủ mọi chủng tộc người vi không thời là một miền đất đua ĐỦ văn hóa lai và từ đó Mỹ Latin đã tự khẳng định số 1 là người đồng thời của nhân lo thon nay. J.L. Borg người mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo lý Latin được cả loài người hâm mộ.

   Thông tin Tác giả
Jorge Luis Borges (1899–1986) là một nhà văn và nhà thơ người Argentina, một nhân vật chủ chốt trong nền văn chương tiếng Tây Ban Nha với những tác phẩm đã trở thành điển phạm của châu Mỹ Latin trong thế kỷ XX. Sách của ông bắt đầu được dịch và xuất bản rộng rãi ở Mỹ và châu Âu sau khi ông được trao giải Prix International cùng Samuel Beckett năm 1961. Danh tiếng quốc tế của ông cũng được củng cố bởi các giải de Cervantes năm 1969 và giải Jerusalem năm 1971, bên cạnh sự bùng nổ của các nhà văn Mỹ Latin thuộc thế hệ sau trong những năm 1960 và 1970.
***
   Thông tin Dịch giả 
Nguyễn Trung Đức, người đã qua nguyên bản tiếng Tây Ban Nha mang tới nào Alejo Carpettier, Octavio Patt, nào Jorge Luis Borges và một sự vĩ đại tên Gabriel Garcia Márquez tặng cho bạn đọc Việt Nam. Anh luôn tâm niệm công việc  của người dịch văn học là phải tìm cho được những tác phẩm hay và khi dịch phải đảm bảo ba yêu cầu Tín - Đạt – Nhã mà trong đó, Tím đứng đầu. Anh cũng là người cả đời sống trộm Chữ Tín với công việc, tới bạn bè.. .
Nguyễn Trung Đức quê Phú Thọ, sinh ngày 27 tháng Bảy 1942, mhất ngày 02 tháng Một 2007. Với tư cách dịch giả, Nguyễn Trung Đức đã có công rất lớn trong việc giới thiệu văn học Mỹ Latin hiện đại qua nguyên bản tiếng Tây Ban, và như thế, anh đã có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển văn học Việt Nam hiện đại,
- Trần Hoàng Bách
***

KỈ NIỆM 100 NĂM SINH

JORGE LUIS BORGES

(1899-1986)

BORGES - MỘT BẬC THẦY

Vốn là người có kiến văn sâu rộng, một kiến văn thông kim bác cổ, một kiến văn ôm trùm từ Tây sang Đông, đồng thời là người được trời phú cho trí tưởng tượng tuyệt vời, Jorge Luis Borges đã để lại một công trình văn học căn bản trong đó ông chỉ chơi hai khái niệm then chốt: thời gian và không gian: sự hoà trộn giữa thời - không gian thực với thời - không gian ảo, tạo nên một thực thể văn học phong phú đa dạng có sức hấp dẫn và do đó nó là hình bóng chân thực của cuộc sống thực tế Mỹ Latin - một miền đất trùng phức nhiều lứa tuổi nhân loại trong ngày hôm nay, một miền đất chung sống đủ mọi chủng tộc người và đồng thời là một miền đất đua nở văn hoá lai và từ đó Mỹ Latin đã tự khẳng định mình là người đồng thời của nhân loại hôm nay. J.L.Borges người mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin được cả loài người hâm mộ.

Borges sinh ngày 24 tháng Tám năm 1899 tại Buenos Aires, thủ đô Argentina, trong một gia đình tư sản lớn. Ngay từ khi còn ấu thơ ông đã tiếp thu một nền giáo dục cung đình của châu Âu và một sự luyện rèn văn chương nghiêm khắc trong thư viện ông bà ngoại. Năm 1914 ông chuyển sang Thụy Sĩ, là nơi ông học bậc thành chung, học tiếng Pháp và tiếng Đức. (Ngay từ thuở ấu thơ ông đã học tiếng Anh). Năm 20 tuổi, ông cùng gia đình đến Tây Ban Nha và ở Madrid ông làm quen với các nhà thơ thuộc phong trào bảo hoàng cực đoan (Ultraismo), những người bảo vệ chủ nghĩa thực nghiệm chống lại mĩ học của Thế hệ 98 Tây Ban Nha.

Năm 1921, ông trở về tô quốc và thông qua tờ Proa, do ông sáng lập, du nhập trường phái bảo hoàng cực đoan vào Buenos Aires. Ông trở thành người truyền bá chủ chốt của khuynh hướng thơ ca mới. Thuộc về giai đoạn sáng tác này là tập thơ với nhan đề Nhiệt hứng của Buenos Aires (1925) và tập tiểu luận với nhan đề Những tra cứu (1925).

Nhiệt huyết tuổi trẻ mai một đi cùng năm tháng và do đó ông đã từ bỏ trào lưu bảo hoàng cực đoan để lăn xả vào một cuộc tìm kiếm mới trong sáng tác văn học của mình. Năm 1929, ông đã đi tới một kiểu viết ngắn cổ điển. Phong cách của ông đã định hình và các trang viết của ông căng đầy những yếu tố ảo và trừu tượng, thường xuyên dựa trên việc sử dụng lại những khởi hứng văn chương truyền thống. Điều nấy được thấy rõ trong truyện ngắn đầu tay của ông xuất bản năm 1935. Sau khi xuất bản tập Sáu vấn đề của ngài Isidro Parodi, một tiếu thuyết hình sự cộng tác với nhà văn A Casares, Borges đã củng cố và nâng cao uy tín nghề nghiệp của mình bằng việc công bố hai tập truyện ngắn tuyệt vời tiếp theo. Đó là tập Những hư cấu (1844) và Aleph (1949). Trong các tác phẩm này, thông qua trò chơi hài hước và trí tuệ mang dấu ấn cảm quan trữ tình của ông, Borges tiến hành một cuộc lật đổ đích thực khái niệm hiện thức đã quen dùng. Đồng thời ở hai tác phẩm này, người ta nhận ra các thủ pháp biểu hiện của mĩ học Borges. Và cũng trong thời gian này, Borges còn thường xuyên tiến hành công việc nghiên cứu và phê bình, đã công bố các tác phẩm tiêu biểu như Ngôn ngữ Argentina (1928), Tuyển tập văn học ma quái (1941) và tập Văn học cổ điển Đức (1952). Cũng năm 1952 này, ông công bố tập Những tra cứu khác, cho ta thấy tiểu luận của ông đã đạt tới trình độ mĩ mãn.

Năm 1955, Borges bị mù mắt hoàn toàn. Tuy nhiên bệnh tật đã không thể buộc ông phải từ bỏ công việc sáng tác. Từ đó trở đi ông cần có thư ký riêng và người này đã giúp ông nắm bắt được thực tế sáng tác văn học của thế giới và trong nước, giúp ông làm các tập bản thảo mới. Riêng về thơ, ông đã trở lại với thơ ca truyền thống như sonnet, ballade v.v… vì chúng giúp nhà thơ sáng tác bằng cách thuộc lòng các bài thơ mới. Những truyện ngắn trong tập Sách cát (1955), lấy cảm hứng sáng tạo từ truyền thống Scandinave, và tập Kẻ hành sự (1960) cho thấy tài năng tự sự của Borges đã đạt tới trình đô hoàn hảo. Giải quốc tế của các nhà xuất bản trao tặng năm 1961 đã nâng cao uy tín quốc tế của Borges. Những tác phẩm sau này của ông, dù là văn, như Thông tin của Brodie (1979), Sách về những người tưởng tượng (1979), hoặc thơ ca như tập Hoa hồng thâm uyên (1975) và tập Lời giải (1982) đã cho thấy khả năng cách tân nâng cao các thể loại văn học của ông. Các chủ đề quen thuộc của ông - ví thực tại là một mê cung lộ, thời gian và sự vĩnh hằng, trò chơi những chiếc gương - đã trở thành tài sản văn học thế giới và uy tín lớn của ông đã giúp nhiều cho việc cả thế giới thừa nhận Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin. Năm 1980, Borges nhận giải Miguel de Cervantès, chuyên tặng cho tác giả có công bảo vệ và phát triển tiếng Tây Ban Nha.

Ông mất ngày 14 tháng Sáu năm 1986 tại Genève, Thụy Sĩ vì bệnh ung thư. Thi hài ông được lưu giữ mãi mãi ở đây theo nguyện vọng của chính ông.

Tuy Jorge Luis Borges đã qua đời, tác phẩm của ông vẫn sống, luôn luôn được in lại ở khắp các nước nói tiếng Tây Ban Nha và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác. Sự nghiệp văn học của ông được thiên hạ nghiên cứu, bình luận ở khắp nơi. Điều quan trọng hơn cả: thi pháp của ông vẫn được các nhà văn trẻ hôm nay vận dụng thành công trong điều kiện mới.

NGUYỄN TRUNG ĐỨC

BORGES QUA LỜI BORGES

NGUỒN GỐC, GIA ĐÌNH, BẠN BÈ

Chúng tôi đều là những người ra đi. Đám mây

dày nhiều lớp buổi chiều tà

là hình ảnh chúng ta.

Hoa hồng không ngừng hoá ra hoa hồng,

mi là biển, là mây, là sự lãng quên.

Đồng thời mi còn là thứ mi đánh mất.

(Rút từ tập Lời khẩn nguyện)

Tôi sinh ra trên phố Tucumán, ở trung tâm thành phố Buenos Aires, trong một ngôi nhà như bao ngôi nhà ở đây thời ấy: thấp, có sân. Trong sân có một bể nước và tận đáy bể một con rùa chuyên ăn bọ gậy làm cho nước sạch.

Bà tôi là người Anh. Nhưng họ kép tên của tôi: Borges và Acevedo khiến tôi tin rằng đó là họ Do Thái - Bồ Đào Nha. Trong dòng máu tôi còn có cả họ Vasco. Bởi họ Anchorena là Vasco… ông nội tôi, đại tá Borges, tư lệnh ba vùng - bắc và tây thành phố Buenos Aires và nam thành phố Santa Fe, lấy bà tôi và cùng bà tôi đến Junin sinh sống bốn năm. Cụ có cơ hội để chuyện trò cùng các tù trưởng… Các tù trưởng rất dũng cảm, có những câu chuyện anh hùng rất ấn tượng.

Mẹ tôi là một cô gái thuộc gia đình nền nếp người Argentina và cha tôi, một trí thức tự do và có văn hoá, vì thân mẫu ông là người Anh và là tín đồ Tân giáo. Tôi phải nói rằng ông sống một cách trí thức trong một thế giới phức tạp hơn thế giới của mẹ tôi.

Người cùng huyết thống với tôi quyến rũ tôi nhưng tôi thích những người đã chết. Những người anh em con chú con bác vui đùa với em gái tôi cho dù họ chỉ đến chơi. Norah là người rất hào hiệp… Lẽ dĩ nhiên tuổi thơ chúng tôi hoà đồng nhưng bao giờ chúng tôi cũng khác nhau. Tuy nhiên chúng tôi hiểu nhau; đôi lúc chỉ có một cái nhìn là đủ, đôi lúc ngay đến nói cũng chẳng cần… Trong mọi trò chơi của chúng tôi, em gái tôi bao giờ cũng là thủ lĩnh; tôi, kẻ luôn ở đằng sau và nhút nhát.

Vì phần lớn người nhà chúng tôi là quân nhân - ngay đến cả chú tôi cũng là sĩ quan hải quân - và tôi hiểu rằng chẳng bao giờ mình có thể là quân nhân, nên từ rất sớm tôi đã cảm thấy hổ thẹn vì mình là một người hiến thân cho sách vở chứ không hiến thân cho cuộc đời hành động.

Phần lớn cuộc đời ấu thơ của tôi trôi đi trong khu nhà riêng của mình. Vì không có bạn cùng tuổi, em gái và tôi bịa ra hai người bạn tưởng tượng mà vì lí do này hay lí do kia chúng tôi gọi là Quilos và Molino, khi chán chúng tôi nói với thân mẫu rằng chúng đã chết rồi.

Tôi không hề thú vị việc nhớ lại những năm đến trường đầu tiên của mình. Để bắt đầu, tôi không đến trường cho đến khi đủ chín tuổi. Đó là vì cha tôi không tin các doanh nghiệp nhà nước. Vì tôi sớm phải đeo kính và ăn mặc theo phong cách Eton: áo cổ cồn và thắt cà vạt, tôi phải chịu đựng những lời chế giễu và công kích của số đông bạn tôi.

Khi cha tôi buộc phải hưu trí vì bị mù, gia đình tôi làm một chuyến du lịch sang châu Âu. Chúng tôi rất ngu về lịch sử thế giới nhất là chúng tôi chẳng hiểu biết tí gì về tương lai cận kề của thế giới nên mới sang châu Âu vào năm 1914 (năm mở đầu cuộc đại chiến thứ nhất) và thế là chúng tôi bị nhốt tại Thuỵ Sĩ… Mục đích của chuyến đi này, để phù hợp với em gái và tôi, là việc chúng tôi phải đến trường ở Genève.

Tôi trở thành một người rất thạo tiếng Latin cho dù phần lớn bài đọc cá nhân tôi thực hiện bằng tiếng Anh. Ở nhà chúng tôi nói tiếng Tây Ban Nha. Nhưng ngay lập tức tiếng Pháp, do em gái nói rất tuyệt vời, đến mức tôi ao ước có được ngôn ngữ đó.

Chúng tôi quyết định trở về nhà, từ châu Âu về thẳng Argentina, nhưng ngay lập tức chúng tôi còn mất một năm nữa ở lại Tây Ban Nha. Đối với tôi, sự kiện lớn nhất ở Madrid là tình bạn với Rafael Casinos Assens. Hiện giờ tôi vẫn thích thú nghĩ mình như một môn đệ của ông.

Sau nhiều năm ở châu Âu, chúng tôi trở về vào năm 1921. Những hiệu sách ở Genève và phong cách sống hào hiệp mà tôi phát hiện ở Madrid thoạt đầu rất cần cho tôi. Tôi quên nỗi nhớ nhung ấy khi tôi làm quen, hay đúng hơn, tôi sẽ lại quan tâm đến Macedonio…1 Macedonio hiến tặng chúng ta cảnh tượng không thể so sánh nổi của một con người sống đam mê và trong suy tư, khác hẳn với loại người sống bằng những thói hư của sự nổi tiếng. Tôi nghĩ rằng Macedonio Fernandez là nhà tư tưởng hơn là nhà văn, là nhà tư tưởng quan trọng nhất. Tôi tin rằng ông, tư tưởng ông, giúp ích cho tôi rất nhiều và thế là tôi bắt chước ông ngay tức thì, nhưng tôi cũng nghĩ rằng phong cách của ông đã ảnh hưởng xấu đối với tôi.

Tôi nhớ những năm 1920, 1925, 1930, dĩ nhiên đó là những thời kỳ khác nhau… Chúng tôi tụ họp để đàm đạo và nói về nhiều vấn đề. Chúng tôi tranh luận thời gian là gì, thơ ca là gì, ẩn dụ là gì, thơ tự do là gì. Chúng tôi nói về những vấn đề lâu dài vượt qua được tính thời sự. Ngược lại, giờ đây do hiểu rằng cứ mười lăm phút xảy ra một sự kiện thì người khác nên xem lại vấn để… Điều tôi còn nhớ của những năm ấy là có một đam mê mà giờ đây đã biến mất: đó là đam mê văn chương, đam mê ẩn dụ. Giờ đây cái khiến cho dân chúng háo hức là đam mê chính trị, đam mê đảng phái. Và thời ấy còn một sự kiện khác: không một ai nghĩ đến thành tích…

Nhóm Florida là một sự bịa tạc của Ernesto Palacio và Roberto Mariani. Không có nhóm Florida cũng chẳng có nhóm Boedo. Điều đó được làm là vì người ta thoả thuận với nhau rằng ở Buenos Aires có cuộc sống văn học theo một Paris, nghĩa là cũng có các buổi sinh hoạt văn học. Người ta nói với tôi về hai nhóm và tôi bảo rằng tôi thích sinh hoạt với nhóm Boedo, nhưng những người tổ chức bảo tôi rằng họ đã ghi tên tôi vào nhóm Florida rồi. Tóm lại, chẳng có gì quan trọng bởi đó là một trò đùa. Có những nhà văn, như Arlt2 và Olivari3 chẳng hạn, tham gia cả hai nhóm ấy.

Một trong những sự kiện quan trọng nhất của đời tôi là việc bắt đầu tình bằng hữu của tôi với Adolfo Bioy Casares. Chúng tôi biết nhau vào năm 1930 hay 1931 gì đó, khi ông độ mười bảy tuổi, còn tôi đã ngoài ba mươi tuổi. Trong những trường hợp như thế này, người ta thường cho rằng người lớn tuổi trở thành thầy và người ít tuổi là đồ đệ. Điều này có thể xảy ra vào lúc đầu, nhưng những năm sau này, trên thực tế, Bioy là thầy của tôi. Điều này hoàn toàn bí mật.

Như rất ít người, tôi không uống rượu, không hút thuốc. Những thói xấu duy nhất của tôi là nghiện Từ điển Bách khoa Anh Quốc và không đọc nhà văn Enrique Larreta… Cuộc đời là có thể chịu đựng được vì nó xảy ra trong những khúc đoạn. Một người thức dậy, cạo râu, ăn sáng sau đó từ từ làm công việc. Vì thế cuộc đời ít sợ hơn… cuộc đời là một, đồng thời là rất nhiều; một mặt nó cho ta nỗi buồn và sự lừa phỉnh, mặt khác là chiến thắng và niềm tin, cái tồi tệ và cái tuyệt vời.

MÙ LOÀ

Cái bóng mờ này từ từ và êm dịu

chảy theo một sườn dốc thoai thoải hiền hậu

và bền lâu như sự vĩnh hằng.

(Trích Ngợi ca bóng tối)

Bây giờ tôi chỉ thấy những bóng tối nhưng với tôi sự mù loà không phải là đau khổ vì nó là một quá trình quá chậm chạp. Ngược lại, nếu có người đột ngột bị mù thì có thể họ nghĩ đến cả tự vẫn. Nhưng nếu bắt đầu mất khả năng nhìn ngay từ khi chào đời thì khác… Ví dụ tôi biết rằng cha tôi chết vì mù, bà nội tôi chết vì mù, cố nội tôi chết vì mù, tôi hiểu rằng cái sự mù này là số phận tôi… Như tôi vẫn thường nói, sự mù loà này là một buổi chiều chậm chạp, nhưng quá ư chậm chạp đến mức người ta không nhận ra nó. Đó là khoảnh khắc ngày chuyển thành đêm tối. Điều đó xảy ra trong khoảng trên dưới hai mươi năm và trong hai mươi năm ấy không có bất kỳ một khoảnh khắc nào đặc biệt đáng nhớ và đau đớn cả.

Khi hoàn toàn bị mù tôi rơi vào một cuộc nói chuyện đáng sợ. Tôi nhìn mọi người bằng lời nói, giọng nói và ngữ điệu của họ. Nếu là người Argentina lập tủc tôi nhận ra họ và có thể biết họ thuộc vùng lãnh thổ nào của đất nước.

Một nhà văn, hay bất kỳ ai, nên nghĩ rằng những gì xảy ra với họ thì đó là một công cụ hữu ích; tất cả những gì người ta mang đến cho anh là có một mục đích, và điều đó cần phải mãnh liệt trong trường hợp của một nghệ sĩ… Bởi thế trong một bài thơ tôi đã nói về thú dinh dưỡng cổ xưa của người anh hùng: sự lăng nhục, nỗi bất hạnh, sự bất hoà. Những thứ ấy được trao cho chúng ta để chúng ta chuyển hoá chúng, để từ hoàn cảnh cùng khốn của cuộc sống chúng ta, chúng ta làm nên những sự kiện vĩnh cửu hoặc để mơ thành vĩnh cửu.

Nếu người mù nghĩ như vậy, anh ta đã được cứu rồi. Sự mù loà là một ân huệ trời ban.

Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Jorge Luis Borges của tác giả Jorge Luis Borges.

Giá bìa 69.000

Giá bán

55.000

Giá bìa 69.000

Giá bán

55.000