Một sống đơn giản không chỉ gồm có sự sở hữu một ít đồ vật, nhưng còn cả sự kiếm sống đúng đắn và sự tự do khỏi những giải trí, những nghiện ngập, và sở hữu. Sự tự do khỏi tham lợi sẽ tạo ra phương tiện kiếm sống đúng đắn, nhưng có những phương tiện sai lầm rõ ràng nào đó. Tham lam, truyền thống, và ham muốn quyền lực sẽ tạo ra phương tiện sai lầm của kiếm sống. Thậm chí trong những thời điểm này khi mọi người bị kiềm chế vào một loại công việc đặc biệt nào đó, tìm được một nghề nghiệp đúng đắn vẫn có thể xảy ra được. Mỗi người phải nhận biết được những hậu quả của nghề nghiệp sai lầm cùng những thảm họa và những đau khổ của nó, công việc đều đặn nhàm chán và những thái độ cư xử quá quen thuộc. Liệu không cần thiết, mỗi người phải biết cho chính anh ấy phương tiện kiếm sống đúng đắn là gì, hay sao? Nếu chúng ta tham lam, ganh tị, tìm kiếm quyền hành, vậy thì phương tiện kiếm sống của chúng ta sẽ tương ứng với những đòi hỏi phía bên trong của chúng ta, và thế là tạo ra một thế giới của ganh đua, nhẫn tâm, áp bức, và cuối cùng kết thúc trong chiến tranh.
***
Jiddu Krishnamurti hay J. Krishnamurti, là một tác gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần. Các chủ đề bao gồm (nhưng không giới hạn): mục đích của thiền định, mối quan hệ giữa con người, và phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu.
Jiddu Krishnamurrti được sinh ra ở Ấn độ năm 1895 và, lúc 13 tuổi, được bảo trợ bởi Tổ Chức Thần học Theosophical Society, đã công nhận ông là phương tiện cho “Thầy Thế Giới” mà sự xuất hiện của ông đã được công bố từ trước. Chẳng mấy chốc K đã nổi lên như một người thầy, không thể phân hạng, không thỏa hiệp và đầy quyền năng; những buổi nói chuyện và những tác phẩm của ông không liên quan đến bất kỳ tôn giáo đặc biệt nào và cũng không thuộc phương Đông hay phương Tây nhưng dành cho toàn thế giới. Cương quyết phủ nhận hình ảnh đấng Cứu thế, vào năm 1929 ông tuyên bố giải tán tổ chức lớn và giàu có đã được xây dựng quanh ông và tuyên bố sự thật là “một mảnh đất không lối vào”, không thể tiếp cận được bởi bất kỳ tôn giáo, triết lý hay giáo phái chính thức nào.
Trong suốt cuộc đời còn lại K liên tục phủ nhận danh vị đạo sư mà những người khác cố gắng ép buộc ông phải nhận. Ông tiếp tục thu hút vô số người khắp thế giới nhưng khẳng định không là uy quyền, không muốn những môn đồ, và luôn luôn nói chuyện như một cá thể cùng một cá thể khác. Tâm điểm những lời giáo huấn của ông là nhận ra những thay đổi cơ bản trong xã hội chỉ có thể được tạo ra bởi sự thay đổi của ý thức cá thể. Sự cần thiết phải hiểu rõ về chính mình và hiểu rõ những ảnh hưởng gây tách rời, gây giới hạn của tình trạng bị quy định thuộc quốc gia và tôn giáo liên tục được nhấn mạnh. Krishnamurti luôn luôn vạch ra sự cần thiết cấp bách phải có được sự khoáng đạt, phải có được “không gian rộng lớn trong bộ não” mà trong đó có năng lượng vô hạn. Điều này dường như đã là nguồn suối của sự sáng tạo riêng của ông và cốt lõi cho những ảnh hưởng to tát của ông đối với vô số người khắp thế giới.
Ông tiếp tục giảng thuyết khắp thế giới cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi chín mươi. Những buổi nói chuyện, những cuộc đối thoại, những lá thư và những bài viết trên báo của ông đã được tổng hợp thành hơn sáu mươi quyển. Từ những lời giáo huấn nhiều như thế một loạt những quyển sách có đề mục này đã được biên soạn, mỗi quyển sách tập trung vào một đề tài có liên quan đặc biệt và khẩn cấp trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.