DTV eBook - Mượn Sách Truyện Tiểu Thuyết Văn Học Miễn Phí Tải PRC/PDF/EPUB/AZW


akishop
Ủng hộ để truy cập kho ebook Google driveTẠI ĐÂY

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Chùa Đàn của tác giả Nguyễn Tuân.

Tóm tắt tiểu thuyết "Chùa Đàn"

"Chùa Đàn" là một tác phẩm của Nguyễn Tuân, được viết vào năm 1945 và hoàn thiện với ba phần vào năm 1946 sau khi ông giác ngộ Cách mạng. Tác phẩm ban đầu mang tên Tâm sự của nước độc, nằm trong tập Yêu ngôn (1999), phản ánh giai đoạn văn học ma mị của Nguyễn Tuân, chịu ảnh hưởng từ Liêu trai chí dị của Bố Tùng Linh. Sau này, ông bổ sung phần Dựng ở đầu và Mưỡu cuối ở kết, tạo nên một cấu trúc hoàn chỉnh.

Câu chuyện xoay quanh Lãnh Út, một người đàn ông chìm trong đau thương sau cái chết của vợ trong vụ tai nạn tàu hỏa. Anh thù ghét máy móc, cấm mọi thứ hiện đại trong ấp Mê Thảo, nơi anh làm chủ. Bá Nhỡ, người quản gia trung thành từng được Lãnh Út cứu khỏi án tử, vì lòng biết ơn mà quyết tâm đáp ứng mong muốn của chủ: nghe lại tiếng hát ả đào. Bá Nhỡ học đánh đàn đáy – một cây đàn kỳ bí làm từ nắp quan tài của một cô gái đồng trinh, bất chấp lời nguyền từ Chánh Thú, người tạo ra nó. Anh mời cô đầu Tơ đến hát, và trong một đêm nhạc đỉnh cao, cả ba – Lãnh Út, Bá Nhỡ, và đầu Tơ – hòa quyện trong tiếng đàn, tiếng hát. Bá Nhỡ hy sinh mạng sống để “đánh thức” Lãnh Út, giúp anh tìm lại ý nghĩa sống. Một năm sau, ấp Mê Thảo mọc lên chùa Đàn, nơi cô Tơ trông coi, với cây đàn đáy thay cho tượng Phật.

Tác phẩm là sự kết hợp giữa tinh thần “vị nghệ thuật” – cái đẹp kỳ quái, bi ai – và “vị nhân sinh” – lòng khao khát sống và cống hiến của con người.

Review (Đánh giá)

Điểm mạnh:

  1. Phong cách duy mỹ đặc trưng của Nguyễn Tuân: Chùa Đàn là minh chứng cho tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân trong việc tìm kiếm và tôn vinh cái đẹp, dù đó là cái đẹp bi thương, đau đớn. Từng câu chữ thấm đẫm chất thơ, thể hiện sự uyên bác của ông về nghệ thuật ca trù, từ ngón đàn đáy đến giọng hát ả đào.

  2. Tính nghệ thuật và nhân văn hòa quyện: Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện ma mị về nghệ thuật mà còn khắc họa sâu sắc khía cạnh nhân sinh. Lãnh Út khao khát tìm lại niềm vui sống, Bá Nhỡ sẵn sàng chết vì chủ, còn đầu Tơ mang nỗi lòng của một nghệ sĩ bị kìm hãm. Sự hy sinh của Bá Nhỡ để “tái sinh” Lãnh Út là một điểm nhấn đầy xúc động.

  3. Cấu trúc độc đáo: Ba phần DựngTâm sự của nước độcMưỡu cuối không chỉ phản ánh hoàn cảnh sáng tác mà còn tương ứng với bố cục ba phần của ca trù (mở, chính, kết), thể hiện sự tài tình trong cách Nguyễn Tuân kết nối nội dung và hình thức.

  4. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhạc tính: Nguyễn Tuân sử dụng ngôn từ phong phú, đa dạng, tạo nên những đoạn văn đẹp như thơ, vừa rùng rợn vừa mê hoặc. Mô tả đêm nhạc với tiếng đàn, tiếng hát và sự “chết dần” của Bá Nhỡ là một tuyệt phẩm văn chương, khiến người đọc vừa hồi hộp vừa xót xa.

Điểm hạn chế:

  1. Phần bổ sung gây tranh cãi: Việc thêm DựngMưỡu cuối tuy làm rõ tinh thần Cách mạng, nhưng một số ý kiến cho rằng đã làm giảm đi vẻ đẹp tự nhiên, ma mị của phần gốc (Tâm sự của nước độc). Phần kết có phần lý tưởng hóa, không còn giữ được sự ám ảnh nguyên thủy.

  2. Tính cách nhân vật chưa sâu: Dù câu chuyện giàu ý nghĩa, các nhân vật như Lãnh Út hay đầu Tơ chưa được khai thác kỹ về nội tâm, khiến người đọc đôi khi chỉ cảm nhận được hành động mà không thấu hiểu hết nỗi đau hay động lực của họ.

  3. Kén độc giả: Với phong cách văn chương cầu kỳ và đề tài nghệ thuật truyền thống, Chùa Đàn có thể khó tiếp cận với độc giả trẻ hiện đại, đặc biệt là những ai không quen thuộc với ca trù hay bối cảnh văn hóa thời bấy giờ.

  4.  

Cảm nhận tổng quan:

"Chùa Đàn" là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, nơi ông kết hợp tài tình giữa cái đẹp nghệ thuật và chiều sâu nhân văn. Tác phẩm không chỉ kể một câu chuyện về sự hy sinh vì nghệ thuật, mà còn là lời ngợi ca cho những con người sống hết mình, dù trong đau khổ. Đọc Chùa Đàn, người ta vừa bị cuốn vào không khí ma mị, kỳ bí, vừa rung động trước lòng trung thành và khát vọng sống mãnh liệt của các nhân vật.

Dù việc bổ sung hai phần đầu cuối có thể khiến một số người tiếc nuối vẻ đẹp nguyên bản, không thể phủ nhận đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất thể hiện phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân – không ai có thể bắt chước. Nếu bạn yêu thích văn chương duy mỹ và muốn khám phá một Nguyễn Tuân khác lạ so với Vang bóng một thời hay Tùy bút sông Đà, thì Chùa Đàn chắc chắn là một hành trình đáng giá.

Đánh giá: 9/10 – Một tác phẩm xuất sắc về nghệ thuật và nhân văn, dù không phải ai cũng dễ dàng cảm nhận hết chiều sâu của nó. Nguyễn Tuân, qua Chùa Đàn, đã chạm đến “thượng đỉnh” của sự sáng tạo như lời Giáo sư Hoàng Như Mai nhận định.

***

Đa phần người đọc, đặc biệt là người đọc trẻ, biết đến Nguyễn Tuân nhiều hơn với thể loại tùy bút hay truyện ngắn như Vang bóng một thờiTùy bút sông Đà…Tuy nhiên, trong giai đoạn 1943 - 1945, Nguyễn Tuân còn theo dòng văn học ma mị bởi sự ảnh hưởng sâu sắc từ các truyện ngắn trong Liêu trai chí dị của Bố Tùng Linh.

Những “đoản thiên ma quái” như Khóa thi cuối cùngTrên đỉnh non Tản, Đới roiXác ngọc lam, Rượu bệnh, Lửa nến trong tranh, Loạn âm hay Tâm sự của nước độc (tức là Chùa Đàm) đã được tập hợp vào tập Yêu ngôn in năm 1999.

Chùa Đàn được viết vào năm 1945, tuy nhiên, sau khi Việt Minh giành được chính quyền tại Hà Nội, Nguyễn Tuân đã mau chóng giác ngộ Cách mạng và viết thêm phần đầu mang tên Dựng và phần kết mang tên Mưỡu cuối cho tác phẩm xuất bản năm 1946. Phần gốc của Chùa Đàn được đặt ở vị trí thứ hai với tên gọi Tâm sự của nước độc.

Vẫn là phong cách duy mỹ thường thấy ở Nguyễn Tuân, ngòi bút của ông trong tác phẩm này hướng đến việc đi tìm cái đẹp, nhưng không còn là cái đẹp hoài vọng, phảng phất u buồn về một thời xa vắng, về những thú chơi trong Vang bóng một thời. Cái đẹp của Chùa Đàn kỳ quái, bi thương và đau đớn hơn rất nhiều khi con người ta sẵn sàng hy sinh thân mình để dùng nghệ thuật mà tái sinh cho một người khác.

Đọc Chùa Đàn, ta bắt gặp một Lãnh Út ngày ngày chìm đắm trong đau thương và rượu bởi cái chết của vợ sau vụ tai nạn tàu hỏa. Từ đó, anh thù ghét máy móc, anh cấm tất cả mọi người trong ấp Mê Thảo không được sử dụng vật dụng liên quan đến khoa học hiện đại.

Ta gặp cả một Bá Nhỡ, người quản gia trung tín vốn nhờ vợ chồng Lãnh Út mà thoát khỏi án tử hình vì tội giết người, thế nên hết lòng cung phụng chủ ấp. Đến một ngày, Lãnh Út bỗng thèm được nghe tiếng hát ả đào, Bá Nhỡ đáp ơn tri ngộ, dày công luyện tập để có thể so dây cây đàn kỳ bí được làm từ ván nắp cỗ quan tài một gái đồng trinh của Chánh Thú mà rước cô đầu Tơ về hát.

Bất chấp lời nguyền oan nghiệt của Chánh Thú, Bá Nhỡ khao khát được “sóng tơ mình với trúc người” hầu mong tiếng hát có thể khiến Lãnh Út “có dịp đầu thai lại vào đời sống”. Bá Nhỡ - Lãnh Út – đầu Tơ đã hợp thành “tam vị nhất thể” để tạo nên một buổi đàn ca vô tiền khoáng hậu. Bá Nhỡ đã chết để Lãnh Út hồi sinh.

Một năm sau, ấp Mê Thảo mọc lên chùa Đàn, cô Tơ là người coi kinh kệ ở đó, chùa chưa có pho tượng Phật nào, mà sau bát hương là một cây đàn đáy với những nét chính của nhạc khí được tạc chìm vào gỗ mộc.

Bản nguyên của Chùa Đàn mang đậm tinh thần vị nghệ thuật vốn có trong bút pháp của Nguyễn Tuân, nhưng nhờ sự tài tình trong cách khai thác nội dung, trong ngôn từ đa dạng mà nó hòa hợp với cả vị nhân sinh nữa.

Ta thấy được trong tác phẩm khía cạnh nhân sinh với những con người mang trong mình nỗi khổ đau khác nhau, nhưng họ đều tha thiết với nghệ thuật. Lãnh Út khao khát muốn được thưởng thức, Bá Nhỡ bất chấp cái chết để đánh lên một bản đàn mong thức tỉnh cậu Lãnh, còn đầu Tơ thực sự mong được cất tiếng hát sau nhiều năm mà cầu xin vong linh của chồng cho phép được sánh cùng ngón đàn tài hoa của Bá Nhỡ.

Để rồi người đọc cùng hòa vào đêm nhạc tuyệt mỹ mà hồi hộp, đau xót từng hồi cùng với sự chết dần chết mòn của Bá Nhỡ giữa tiếng nhạc, tiếng trúc, tiếng tơ và giọng hát xúc động của đầu Tơ.

Bàn đến khía cạnh nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhà biên khảo Nguyễn Mạnh Đăng có viết: “Những đoạn văn như thế, phi Nguyễn Tuân, chắc không ai viết được. Bởi vì trong giới cầm bút, ai sành sỏi được như Nguyễn Tuân về các ngón nghề của hát ả đào, của cây đàn đáy, của chiếc trống chầu…”. Nguyễn Tuân đã đưa toàn bộ kiến thức uyên bác về nghệ thuật hát theo lối ả của mình vào trong tác phẩm khiến nó đậm chất thơ trong từng câu chữ. Ngay cả khi ông điều chỉnh lại kết cấu của tác phẩm thì ba phần Dựng – Tâm sự cùng nước độc – Mưỡu cuối cũng là một ngụ ý của tác giả để thể hiện đúng cấu trúc ba phần của ca trù.

Có ý kiến đánh giá việc thêm hai phần đầu cuối khiến Chùa Đàn mất đi ít nhiều vẻ đẹp tự thân của nó. Tuy nhiên, không thể phủ định đây là một trong những tác phẩm thể hiện hết phong cách văn chương đặc sắc của Nguyễn Tuân.

Xin được kết lại bài viết bằng nhận định của Giáo sư Hoàng Như Mai: “Trong các sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Tuân biểu lộ một tài năng sáng tạo đặc biệt. Mỗi công trình nghệ thuật đều in đậm dấu ấn đỏ chói của ông, không thể lẫn với một ai khác, không một người nào khác mô phỏng được. Với 'Chùa Đàn', tài năng sáng tạo của nhà văn đã vươn tới thượng đỉnh”.

Mời các bạn tải đọc sách Chùa Đàn của tác giả Nguyễn Tuân.

Mọi người cũng tìm kiếm

chùa đàn - nguyễn tuân pdf

Chùa đàn của Nguyễn Tuân đọc hiểu

Phần tích tác phẩm Chùa Đàn

Nội dung Chùa Đàn

Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân

Ảnh tác giả Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân được mệnh danh la gì

Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân trước 1945

may-doc-sach

thi-tran-buon-tenh
tiki-top-sach-nen-tang-nhat-dinh-phai-doc
Giá bìa 125.000

Giá bán

93.750

Tiết kiệm
31.250 (25%)
Giá bìa 125.000

Giá bán

93.750

Tiết kiệm
31.250 (25%)