Nho tướng Nguyễn Công Trứ |
|
Tác giả | Vu Gia |
Bộ sách | |
Thể loại | Lịch sử - Quân sự |
Tình trạng | Hoàn Thành |
Định dạng | eBook mobi pdf epub azw3 |
Lượt xem | 286 |
Từ khóa | eBook mobi pdf epub azw3 full Vu Gia Nguyễn Công Trứ Tiểu Thuyết Lịch Sử Danh Nhân Văn Học Việt Nam Văn Học Phương Đông |
Nguồn | vnthuquan.net |
Tiểu thuyết "Nho tướng Nguyễn Công Trứ truyện" của tác giả Vu Gia khắc họa cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ (1778-1858), một nhân vật lịch sử nổi bật của Việt Nam thời nhà Nguyễn. Tác phẩm tái hiện hành trình từ thuở nhỏ với chí hướng lập công danh, giúp đời, đến khi trở thành một vị quan thanh liêm, tài trí, trải qua ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Nguyễn Công Trứ sinh ra ở Quỳnh Côi (Thái Bình), sau đó về quê cha ở Uy Viễn, Nghi Xuân (Hà Tĩnh), đến năm 41 tuổi đỗ Giải nguyên trưởng Nghệ, bắt đầu sự nghiệp quan trường kéo dài 28 năm.
Trong sự nghiệp, ông giữ nhiều trọng trách lớn như Tham tán đại thần, Tổng đốc Đông, Phủ doãn Thừa Thiên, nhưng cũng từng bị giáng chức, làm lính thú nơi biên thùy. Dù ở cương vị nào, ông luôn thể hiện tinh thần trung quân, dám nghĩ dám làm, vượt qua khuôn thước thời đại. Nguyễn Công Trứ nổi bật với các công lao quân sự (dẹp loạn), chính trị (kinh bang tế thế), và đặc biệt là công cuộc khai hoang lấn biển, tạo nên các huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Nhận thấy nguyên nhân sâu xa của các cuộc khởi nghĩa nông dân là thiếu đất canh tác, ông đề xuất và tổ chức khai hoang, thu hút dân nghèo tham gia bằng chính sách phong chức dựa trên công lao, giúp tăng diện tích đất nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân.
Ngoài ra, Nguyễn Công Trứ còn là một nhà thơ lớn, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện chí nam nhi, triết lý hưởng lạc và khí phách ngang tàng. Cuộc đời ông là sự kết hợp giữa một vị quan lớn đầu triều, một tướng lĩnh tài ba, một nhà khai hoang lỗi lạc và một thi sĩ ngông nghênh, để lại di sản to lớn cho hậu thế.
***
Nguyễn Công Trứ sinh năm 1778, mất năm 1858, tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo một số tài liệu, ông sinh ra ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ (Thái Bình), đến năm 10 tuổi mới theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh.
Từ nhỏ, Nguyễn Công Trứ luôn nuôi ý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp. Sống và làm việc trái qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Nguyễn Công Trứ đã ba lần lều chõng đi thi, đến tuổi 41 đỗ Giải nguyên trưởng Nghệ. Ông nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người.
Trong suốt 28 năm làm quan, có những lúc ông từng giữ đến chức quan lớn như: Tham tán đại thần, Tổng đốc Đông, Phủ doãn Thừa Thiên... nhưng cũng có khi ông bị bắt đi làm lính thú ở biên thùy. Dù ở cương vị nào, ở đâu, lúc thăng lúc giáng thì Nguyễn Công Trứ vẫn luôn là một trung thần, luôn là người dám nghĩ dám làm, dám sống, vượt lên trên khuôn thước của thời đại.
Theo TS Lê Hiến Chương, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một nhân cách đa tài, đa diện. "Sự đa tài ở chỗ ông là vị quan lớn đồng thời là một nhà chính trị lớn. kinh bang tế thế không mấy ai bằng. Thứ hai là tướng lĩnh, nhà quân sự tài năng, ông đánh Nam dẹp Bắc. Thứ ba là nhà thơ lớn. Còn đa diện thì ông là quan lớn đầu triều nhưng đồng thời cũng là một người ăn chơi, ngông, gàn. Ông là người có nhiều công lao lớn đặc biệt khai hoang lấn biển".
Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ là người kiên quyết bảo vệ trật tự xã hội phong kiến. Vì thế ông có nhiều công trạng đối với nhà Nguyễn trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa (chủ yếu là của nông dân) chống lại triều đình như khởi nghĩa Phan Bá Vành, Nông Văn Vân. Nhưng chính trong những lần dẹp loạn đó, ông đã nhận ra những kẻ “làm loạn” không phải ai xa lạ mà chính là những người dân đói lưu vong không có ruộng đất. Muốn khắc phục triệt để nạn xiêu tán và khởi nghĩa thì phải giải quyết được nhu cầu ruộng đất và cơm áo cho nông dân nghèo.
Với nhãn quan của một vị quan tài giỏi, Nguyễn Công Trứ nhận thấy những miền bãi bồi ven biển chính là sự hào phóng của thiên nhiên ban tặng, đất đai màu mỡ có thể khai phá thành đất canh tác. Từ đó, ông đã trình sớ lên triều đình nêu rõ nguyên nhân sâu xa của khởi nghĩa nông dân và đề nghị khai hoang ở nhiều vùng, miền để nhân dân có ruộng đất sản xuất, không bỏ phí tài nguyên. Điển hình là việc khai sinh ra huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình).
Để tiến hành khai hoang, doanh điền, Nguyễn Công Trứ đã tổ chức lực lượng tham gia thành các lý, ấp, trại, giáp. Nhằm chiêu mộ được đông người, khai khẩn được nhiều ruộng đất, Nguyễn Công Trứ quy định: Người nào mộ được 50 đinh, khai khẩn được 600 mẫu, được phong chức lý trưởng; mộ được 30 đinh, khẩn hoang được 400 mẫu, phong chức ấp trưởng; mộ được 15 đinh, khẩn hoang được 200 mẫu, phong chức trại trưởng; mộ được 10 đinh trở lên và khẩn hoang được 120 mẫu, phong chức giáp trưởng. Cách làm của ông đã nhận được sự đồng tình của nhân dân, được coi là quốc sách thời bấy giờ và được tiến hành rộng rãi trong cả nước dưới 3 hình thức: Đồn điền, doanh điền và xã thôn khai khẩn ruộng bỏ hoang. Nhờ đó, ở thời Nguyễn, diện tích canh tác tăng lên rõ rệt. Sau này, nhân dân các vùng khai hoang rất biết ơn và họ lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống.
Không chỉ là nhà quân sự, nhà khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. TS Lê Hiến Chương, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội cho biết, thơ ca của Nguyễn Công Trứ xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi, cảnh nghèo và thế thái nhân tình hay triết lý hưởng lạc. Ông đưa những suy ngẫm của mình vào thơ ca, thể hiện khí phách ngang tàng, tài hoa, đặc biệt ở con người ông toát lên một cái tôi rất ngông.
Có thể nói, Nguyễn Công Trứ là một vị quan đa tài “trung quân, ái quốc”. Trong đó, việc khai hoang để dân nghèo có nghề làm ăn và công cuộc doanh điền ở miền ven biển Thái Bình, Ninh Bình... của ông là cái mốc mở đầu cho một thời kỳ của công cuộc chinh phục đất đai bỏ hoang cũng như tạo phong trào khẩn hoang về sau này.