Tiểu thuyết của Lỗ Tấn chỉ có đoản thiên, không có trường thiên. In thành hai tập : một tập ra trước là Nột hám, gồm có mười bốn thiên ; một tập ra sau là Bàng hoàng, gồm có mười một thiên. Ông viết những đoản thiên này từ năm 1918 đến năm 1925, về sau không viết thể văn đó nữa, xoay qua viết tản văn nghị luận hoặc đả kích mà ông gọi là "tạp cảm".
Chủ đề của những truyện ngắn Lỗ Tấn đại để là : đánh đổ đạo đức lễ giáo phong kiến ; chỉ ra bệnh căn xã hội cũ ; bộc lộ những cảnh suy lạc ở nông thôn, tình trạng phụ nữ bị áp bách, cái di hại của cựu học và cái phù phiếm không thực tế của tân học. Nhân vật và đề tài của nó đại để là : bần cố nông, đàn bà nghèo chết chồng hay bị chồng bỏ, nhà nho lỡ vận, tiểu tư sản tri thức và thanh niên nam nữ trong trào lưu tư tưởng mới.
Đọc tiểu thuyết Lỗ Tấn như đọc một thiên lịch sử, thấy cái xã hội Trung Quốc trước và sau Cách mạng Tân Hợi, dưới những ách phong kiến, gót sắt quân phiệt, xiềng xích đế quốc, tình trạng rất là bại hoại, tiêu điều, nguy ngập, nó phải đòi hỏi một cuộc cách mạng khác triệt để hơn. Một điều hình như thiếu sót là tác giả chỉ đưa vấn đề ra mà không giải quyết. Chính Lỗ Tấn cũng có nói : "Tôi bộc lộ cái bệnh căn của xã hội ra, thúc giục người ta để ý, kiếm cách sửa chữa". (Bài tựa Lỗ Tấn tự truyện tập). Có lẽ cũng vì đó mà, sau Tưởng Giới Thạch làm phản Cách mạng năm 1927, khi Trung Quốc tràn ngập cái họa nội loan ngoại xâm, Lỗ Tấn xoay qua, trong không đầy mười năm, viết mười một tập tản văn gọi là tạp cảm để đấu tranh cụ thể hơn, càng mãnh liệt hơn.
Dù vậy, tiểu thuyết Lỗ Tấn vẫn không vì đó giảm kém giá trị của nó. Bởi nó bao giờ cũng đi sát với hiện thực xã hội, nhờ ngòi bút sắc bén giải phẫu linh hồn mọi người, làm cho ai đọc đến đều phải giật mình, thấy cái cũ thối nát đành bỏ, cái mới tốt đẹp đáng theo. Tức như Nhật ký người điên và A Q. chính truyện đã có ảnh hưởng rất lớn cho cách mạng văn hóa Trung Quốc và cũng làm viên đá tảng đầu tiên đặt vững cái nền cách mạng văn học Trung Quốc. Cho nên, văn chương Lỗ Tấn, kể về lượng thì tiểu thuyết không bằng tản văn tạp cảm, mà kể về phẩm thì hai thứ ngang nhau.
Bảy thiên in trong tuyển tập này, sáu thiên đầu dịch từ Nột hám, thiên sau cùng dịch từ Bàng hoàng. Chỉ có một thiên Chúc phước từng đăng trên Tạp chí Văn nghệ năm 1950, còn thì chưa hề in ra ở đâu.
Gọi bằng "tuyển tập", tuyển theo hai tiêu chuẩn : một là những truyện nào, theo người dịch thấy, gần với tánh tình phong tục người Việt Nam ; một là những truyện nào người dịch hiểu hết được ý nghĩa, nhất là nắm được chủ đề nó. Có thể sau này sẽ dịch tất cả, nhưng hiện nay hẵng tuyển bảy thiên này dịch trước.
Trong những truyện, có chỗ dùng điển tích ở sách xưa, có chỗ cần phải hiểu với lịch sử cận đại Trung Quốc, có chỗ dụng ý hơi sâu kín, tôi đều có chú thích theo cái biết của mình. Còn những từ ngữ bằng chữ Hán mà người Việt Nam thường cũng có nói đến như "tái ông thất mã an tri phi phước", "thiên hữu bất trắc phong vân", thì không chú thích.
Cái truyện ngắn nào, tự nó đã thuyết minh chủ đề của nó, như Khổng ất kỷ, Chúc phước, xem qua khắc hiểu, thì không có lời giải. Nhưng cái nào, chủ đề hơi khuất kín : nói một nơi mà phải hiểu một nơi như Nhật ký người điên, không nói ngay chánh diện mà nói bên cạnh như Chuyện cái đầu tóc, hay là chủ đề phức tạp và tản mạn như A Q. chính truyện, thì tôi có viết mấy lời lược giải ở sau truyện, gọi là "Nêu đại ý".
Về sự dịch, tôi theo lối "trực dịch" của Lỗ Tấn mà tôi cho là lối dịch lý tưởng nhất. Nghĩa là nguyên văn thế nào cứ thông ngôn ra thế ấy, không bớt đi hay thêm vào, khi cực chẳng đã lắm thì mới đảo lên đảo xuống những mạng đề. Chẳng những theo sát ý nghĩa của nguyên văn mà còn phải truyền đạt thân tình của nguyên văn, đồng thời lại không được phản giọng điệu tiếng bổn quốc. Đó là cái đích tôi nêu lên để nhằm mà theo, thực sự, có theo được đúng hay không, lại là chuyện khác.
Không phản giọng điệu tiếng bổn quốc, nhưng có khi lại muốn thêm giọng điệu cho tiếng bổ quốc. Như câu nguyên văn "nhất đại bất như nhất đại", theo tiếng ta đáng lẽ phải nói "mỗi đời một tệ", nhưng tôi đã không nói thế mà dịch đúng theo "một đời chẳng bằng một đời", là muốn thêm một cách nói cho tiếng ta.
Có một vài điều cần phân bua với bạn đọc là : có những danh từ biết là dịch không đúng mà không thể dịch đúng được, như "ba tiêu phiến" mà dịch là "quạt lá vả", "tùng hoa phạn" mà dịch là "cơm gạo hoa khế". Lại có những danh từ tra tự điển không có, không biết hỏi ai, dịch liều cho qua việc, như bốn thứ chim "đạo kê, giác kê, bột cô, lam bối" mà dịch là "sáo, cưởng, chim gâu, chim sả", may ra chỉ trúng được hai thứ sau. Sự dịch liều ấy là một cái lỗi lớn, mong về sau tìm biết được sẽ chữa lại cho đúng.
Ngoài ra, công việc dịch này không làm liên tiếp một thời gian mà làm cách khoảng. Hai thiên Sóng gió và Làng quê mới dịch sau khi hòa bình thắng lợi trở về thủ đô ; Nhật ký người điên dịch năm 1949, còn bốn thiên kia dịch năm 1947, đều ở trong thời kỳ kháng chiến. Có thể vì sự cách khoảng ấy mà thể lệ dịch có chỗ trước sau không in nhau tuy đã có kiểm soát qua mấy bận rồi.
Trong bài Tiểu dẫn Cận đại đoản thiên tiểu thuyết tập, chính Lỗ Tấn có nói : Thứ văn chương làm bia kỷ niệm một thời đại, không thường có trên văn đàn, nếu có, cũng chín phần mười là những bộ sách lớn. Lấy một thiên tiểu thuyết ngắn mà làm thành ra cái cung đền lớn, chỗ ở của tinh thần thời đại, thì thật là hiếm thấy" (Tam nhàn tập, trang 132). Lại trong bài Tiểu dẫn Người nghèo của Dostoevsky, Lỗ Tấn có nói : "... Đào đến chỗ sâu của linh hồn, khiến người ta chịu khổ hình mà bị thương, lại cũng ngay từ trong sự bi thương, băng bó, chữa lành đó thoát được cái khổ mà đi lên con đường sống lại" (Tập ngoại tập, trang 100). Đó là ông nói về giá trị và tác dụng của truyện ngắn kiệt tác trên thế giới, và của một nhà đại văn hào Nga, nhưng tôi tưởng truyện ngắn của ông cũng thế.
Cái "cung đều lớn" ấy, không nói "hiếm có" mà nói "hiếm thấy", còn có lẽ nó "có" mà ít ai "thấy" chăng ? "Đào đến chỗ sâu của linh hồn" : truyện ngắn là "sâu" ? "Sâu" tới đâu ? Cái "sâu" ấy thật là khó lòng cho tầm con mắt cạn. Vì nghĩ như vậy, tôi đã cố gắng hết sức, để toàn tâm toàn ý vào việc dịch này, nhưng không dám chắc mình đã thấy cái lớn cái sâu của tác giả.
Mới rồi xem tạp chí Tân kiến thiết, trong một số nào đó, thấy ông Tôn Phục viên, người học trò cũ và là bạn đồng sự của Lỗ Tấn, viết một bài ngăn ngắn nói về cái đoản thiên Nhật ký người điên mà bị đến mấy người chỉ trích, làm ông ấy phải tự kiểm thảo và nhận lỗi, tôi mới nhớ ra mình là người Việt Nam, dù thận trọng cho mấy cũng không khỏi có sự sai lầm. Vậy sau khi cuốn Tuyển tập này in ra, rất mong bạn đọc chỉ giáo cho. Tôi cũng mong bạn đọc đừng nghĩ rằng tôi viết đoạn cuối cùng này là để chực đánh tháo trốn trách nhiệm.
Phan Khôi
(Viết ngày 28 tháng 7 năm 1955 tại Hà Nội)
***
Tôi có ý viết cho chú AQ một pho chính truyện đã mấy năm trời nay rồi, nhưng một đằng tính viết, một đằng lại ngần ngại (1). Điều đó đủ chứng tỏ rằng tôi chẳng có tư cách một nhà "lập ngôn" (2)tí nào. Chả là xưa nay những ngòi bút bất hủ phải dành để viết về những nhân vật bất hủ. Thế rồi, nhân vật nhờ văn chương mà trường thọ, văn chương cũng nhờ nhân vật mà được lưu truyền. Rút cục, văn chương nhờ nhân vật hay nhân vật nhờ văn chương mà được lưu truyền, cũng khó nói cho minh bạch. Ấy thế mà chung quy tôi vẫn cứ nghĩ đến viết truyện (3) cho AQ. Thì ra tâm trí tôi như có ma quỷ ám ảnh.
Nhưng vừa cầm bút định viết thiên văn chương "tốc hủ" này, tôi đã cảm thấy nhiều điều khó khăn.
Một là cái nhan đề cuốn truyện. Đức Thánh nói rằng: "Danh bất chính tắc ngôn bất thuận" (Tên không đúng thì lời nói không xuôi). Ấy là một điều mình phải đặc biệt chú ý có nhiều loại: liệt truyện, tự truyện, nội truyện, ngoại truyện, biệt truyện, gia truyện, tiểu truyện... phiền một nỗi không có một tên nào hợp cả. Gọi là "liệt truyện" ư? Thì đây nào có phải là một nhân vật có tên tuổi bằng vai bằng lứa với những nhân vật tai to mặt lớn trong "chính sử"! Gọi là "liệt truyện" ư? Thì tôi nào có phải là AQ! Nói là "ngoại truyện", thì "nội truyện" ở đâu? Còn nói là "nội truyện", thì AQ quyết không phải là thần tiên. Hay là dùng chữ "biệt truyện" vậy! Khốn nỗi ông đại tổng thống, ngài chưa hề hạ dụ cho quốc sử quán chép "bản truyện" của AQ bao giờ. Vẫn biết rằng mặc dù trong bộ chính sử nước Anh không hề chép liệt truyện các người đánh bạc, mà nhà đại văn hào Dickens cũng đã viết ra bộ Liệt truyện những người đánh bạc (4). Nhưng một nhà văn hào có thể như thế, chứ bọn mình thì quyết không xong. Sau nữa, còn hai chữ "gia truyện". Nhưng tôi không rõ tôi với AQ có phải là bà con không mà con cháu y cũng chưa nhờ tôi viết hộ bao giờ! Hay gọi là "tiểu truyện"? Thì AQ cũng chưa hề có một bộ "đại truyện" (5)nào cả. Nói tóm lại, truyện này cũng có thể cho là một bộ "bản truyện", nhưng xét ra, văn chương của tôi nôm na mách qué lắm, toàn dùng những lời của "anh kéo xe, chị bán tương" (6), lẽ nào lại dám lạm dụng như thế? Cực chẳng đã, đành phải mượn hai chữ "chính truyện" trong câu đưa đẩy mà mấy nhà viết tiểu thuyết "không chính qui" vẫn dùng: "Nhàn thoại hưu đề, ngôn qui chính truyện" (Hãy gác những chuyện rườm rà để kể lại chuyện chính) (7)mà đặt cho bộ sách cái tên "chính truyền", mặc dù hai chữ này có thể lẫn lộn với hai chữ "chính truyện" trong tên bộ sách có tiếng của cổ nhân là bộ Thư pháp chính truyền (8)thì cũng mặc!
Hai là, lệ thường phàm viết truyện, người ta vẫn hay mào đầu bằng mấy chữ: "Ông Mỗ, tự là Mỗ, người xứ nọ, xứ kia...", thế nhưng tôi lại không biết AQ họ gì hết. Có một lần, tưởng như AQ là họ Triệu, nhưng đến ngày hôm sau thì lại không lấy gì làm chắc nữa. Ấy là hôm cậu con Cụ Cố nhà họ Triệu vừa thi đỗ tú tài. Hôm ấy, tiếng phèng la "Bèng! Bèng!" báo tin cho làng nước biết. AQ uống luôn hai bát rượu tăm rồi khoa chân múa tay nói rằng: tin ấy cũng làm cho y rất vẻ vang, bởi vì y vốn là bà con với cụ Triệu; nếu tính theo đúng thế thứ trong gia đình thì y còn đứng ngang hàng với ông nội cụ tú kia đấy! Lúc đó, những người đứng xung quanh nghe cũng có vẻ kính nể y. Nào ngờ, hôm sau bác khán làng đã gọi AQ đến nhà Cụ Cố họ Triệu. Vừa thấy AQ, cụ mặt bừng bừng mắng ngay:
- AQ! Mày là một thằng khốn nạn mà mày lại dám nhận là họ hàng với tao kia à?
AQ đứng câm miệng.
Cụ càng nhìn, càng giận, sấn tới mấy bước nữa, nói:
- Mày dám nói láo như thế à? Làm sao tao lại họ hàng với thứ mày được? Mày là người họ Triệu à?
AQ vẫn đứng im thin thít, muốn liệu thế chuồn nhưng Cụ Cố đã nhảy tới, tát cho một tát vào mặt.
- Mày là người họ Triệu thế nào được kia chứ? Mày mà họ Triệu vào cái ngữ nào? (9)
AQ không hề biện bác gì về chỗ y chính là họ Triệu hay không cả, chỉ đưa tay sờ vào má bên trái rồi cùng bác khán đi ra. Ra khỏi cửa, bác khán còn mắng cho một mẻ nữa, đành phải kỉnh cho bác hai quan tiền rượu (10). Những người biết chuyện đều cho AQ là vớ vẩn, khi không, chuốc lấy trận đòn oan, chứ nào đã chắc gì mình là người họ Triệu; mà dẫu có quả là người họ Triệu đi nữa thì trước mặt Cụ Cố, cũng không nên nói dại như vậy. Thế là từ đấy về sau, không ai nhắc đến chuyện AQ họ gì nữa. Vì vậy mà tôi không biết được thực tình AQ họ gì cả.
Ba là, tôi cũng không biết chữ tên AQ viết như thế nào (11). Lúc y còn sống, người ta gọi y là A Quay, đến khi chết rồi thì chả hề ai nhắc đến tên ấy nữa, còn nói gì đến việc chép vào sử sách! Mà nếu như có việc chép vào sử sách, thì đây là lần đầu tiên đây, cho nên sự khó khăn này tôi vấp trước ai hết. Tôi từng có lúc nghĩ kỹ rằng: A Quây chính là A Quế hoặc A Quí đây (12)! Nếu như AQ có cái biệt hiệu là Nguyệt đình, hoặc giả y đã ăn sinh nhật vào khoảng tháng Tám, thì nhất định AQuế đứt đi rồi. Nhưng y lại chưa hề có biệt hiệu - mà có nữa cũng không ai biết - lại cũng chưa hề gửi thiếp cho ai vào ngày sinh nhật để người ta gửi đến cho những bài thơ chúc tụng, thành ra viết A Quế là võ đoán. Lại nếu như y có một ông anh hoặc ông em tên là A Phú chẳng hạn, thì nhất định y là A Quí; nhưng y chỉ trơ trọi có một mình. Vậy viết A Quí cũng chẳng có bằng chứng gì. Còn những chữ lạ khác cũng âm "quây" thì tìm không ra. Trước đây, tôi cũng có hỏi qua cụ Tú con cụ Triệu; nào ngờ một người uyên bác như cậu ấy mà cũng mù tịt. Cậu ta kết luận rằng đó là tại ông Trần Độc Tú đấy! Ông ta ra tờ Tân thanh niên (13)rồi đề xướng việc đem chữ Trung Quốc mà viết theo lối chữ Tây, thành ra quốc túy trầm luôn, không biết tra khảo vào đâu nữa. Cuối cùng, tôi đành phải nhờ một người làng lục hộ hồ sơ án AQ xem sao. Ròng rã tám tháng trời, người ta mới trả lời cho tôi rằng: Trong bản án không hề thấy tên nào đọc na ná là A Quay cả, không biết có chắc hay không, hoặc giả người ta không tra khảo gì cả cũng nên, nhưng tôi không còn cách nào khác nữa. Sợ lối "chú âm phù hiệu" chưa được thông dụng, tôi đành dùng lối chữ Tây, theo cách phiên âm của người Anh mà viết thành A Quây, và viết tắt là AQ vậy. Như thế, tôi đã nhắm mắt làm theo bọn Tân thanh niên, trong lòng cũng hết sức áy náy, nhưng cậu Tú còn bí nữa là tôi đây, biết làm thế nào?
Bốn là quê quán AQ. Nếu như y là người họ Triệu thì theo thói quen hay xưng quận vọng, có thể chiếu theo chỗ chú giải trong cuốn Quận danh bách gia tính (14) mà nói rằng: y là người "Thiên Thủy, miền Lũng Tây". Nhưng đáng tiếc, AQ họ gì chưa rõ lắm, thì quê quán y ở đâu cũng chưa có thể định được. Tiếng rằng AQ bình sinh vẫn trú ngụ ở làng Mùi, nhưng y lại cứ luôn luôn đi ngủ trọ đâu đâu ấy. Thành thử không thể nói y là người làng Mùi được. Nếu nói là người làng Mùi thì trái với phép viết sử.
Một điều an ủi cho tôi là A (15)thì đúng hết sức, quyết không mắc vào khuyết điểm vơ quàng vơ xiên, có thể đưa ra tuyên bố cùng các nhà thông thái được. Còn như những việc khác, thì kẻ thiển học này không dám xuyên tạc, chỉ mong các đồ đệ của ông Hồ Thích Chi (16)là những người "sính lịch sử, sính khảo cứu" sau này có tìm ra manh mối gì khác chăng? Nhưng lúc đó, e cuốn AQ chính truyện của tôi đã mất tích từ bao giờ rồi...
Trên đây cũng cho đi là một bài tựa. (17)
Lỗ Tấn
Mời các bạn đón đọc
Tuyển Tập Truyện Ngắn Lỗ Tấn của tác giả
Lỗ Tấn.