Chiến Đấu Trong Vòng Vây |
|
Tác giả | Võ Nguyên Giáp Hữu Mai |
Bộ sách | Hồi Ức |
Thể loại | Hồi Ký |
Tình trạng | Hoàn Thành |
Định dạng | eBook mobi pdf epub azw3 mp3 |
Lượt xem | 2393 |
Từ khóa | eBook mobi pdf epub azw3 Audiobook Sách Nói mp3 full Võ Nguyên Giáp Hữu Mai Trung Nghị Hồi Ức Hồi Ký Lịch Sử Lịch Sử Việt Nam Văn Học Việt Nam Văn Học Phương Đông |
Nguồn | vnmilitaryhistory.net |
Ấn phẩm "Chiến đấu trong vòng vây" của tác giả Hữu Mai, do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - Thanh niên ấn hành năm 1995. Ấn bản đang được lưu giữ tại Quán Sách Mùa Thu có tình trạng đẹp, còn nguyên bìa gáy, đủ số trang, có bút tích và chữ ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sách dày 436 trang, lõi sách chắc chắn.
Hơn bốn chục năm đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ ngày có Đảng sẽ mãi mãi được khắc bằng những chữ vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh oanh liệt hàng ngàn năm dựng nước và chiến đấu giữ nước của dân tộc. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân ta đã vượt lên trên ý nghĩa của một cuộc chiến đấu chống xâm lược ở một nước vì nó chứng minh những chân lý mới của thời đại mới.
Trong sự nghiệp vĩ đại đó hiện lên hình ảnh của Hồ Chủ Tịch , hùng vĩ mà giản dị, thiêng liêng mà gần gũi, rực rỡ mà thuần khiết như ánh ban mai. Dưới sự lãnh đạo của Người, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích có một không hai. Tập Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ nhắc chúng ta nhớ về những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ngày ấy. Chúng ta tự hào về lịch sử của dân tộc, tự hào vì chính trong khói lửa và nước mắt đã sản sinh ra một thế hệ mới: Thế hệ Hồ Chí Minh. Thế hệ đó đã đảm đương nhiệm vụ làm người chiến sĩ xung kích chiến đấu cho một kỷ nguyên mới của đất nước, của loài người: kỷ nguyên của độc lập, tự do của chủ nghĩa xã hội. Thế hệ đó đang tiếp tục đi lên theo tiếng gọi của Người.
Chưa tới lúc đề cập tới những nguyên nhân thắng lợi của cuộc chiến tranh, mà không ai nghĩ đã kéo dài tới 30 năm. Nhưng nhìn lại 5 năm chiến đấu trong vòng vây, nếu kể từ ngày cả nước kháng chiến là gần 4 năm, ta cần tìm hiểu vì sao lực lượng vũ trang non trẻ của ta bắt đầu chiến đấu với gậy tầm vông, mã tấu, mác búp đa… lại đủ sức đối địch với đạo quân viễn chinh hiện đại của Pháp, trong cuộc xâm lược lần thứ hai; vì sao quân và dân ta không những đã trụ vững mà còn ngày càng lớn mạnh; hơn thế nữa, đã làm thất bại mưu đồ của thực dân Pháp tái chiếm nước ta bằng quân sự. Giai đoạn đầy này đặc biệt quan trọng. Vì không có nó sẽ không có những giai đoạn tiếp sau.
Mùa hè năm 1949, Quân ủy Trung ương đã triệu tập một cuộc Hội nghị cán bộ quân chính cao cấp, có anh Trường Chinh dự, với mục đích đánh giá những thành tựu và sơ kết kinh nghiệm của những năm chiến đấu vừa qua. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta trong giai đoạn này đã được tiến hành trong thời kì lịch sử cận đại, cục diện thế giới đã có nhiều đổi thay sau đại thắng của Hồng quân Liên Xô và các quân đội Đồng minh, mà dân ta thì lại chiến đấu hầu như hoàn toàn không có quan hệ với bên ngoài. Cuộc Hội nghị đã diễn ra trong không khí tự hào và tin tưởng, tự hào về sức mạnh tự lực tự cường không lường được của dân tộc, về tinh thần độc lập tự chủ và nghị lực sáng tạo của Đảng ta, của nhân dân Việt Nam. Sau cuộc Hội nghị, tôi đã viết cuốn “Chiến tranh giải phóng và Quân đội nhân dân”.
Những gì khó khăn và phức tạp hơn là phân tích nguyên nhân thành bại của một cuộc chiến tranh, dù chỉ là một giai đoạn chiến tranh. Chiến tranh là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Thành bại của nó báo giờ cũng là kết quả tổng hợp sự vận động nhiều quy luật và nhiều yếu tố khác nhau, cơ bản và không cơ bản, tất nhiên và ngẫu nhiên. Những nhân tố quyết định đôi khi lại ẩn náu dưới một cái gì đó của cuộc sống và chiến đấu hằng ngày, quá quen thuộc, nên thường dễ bị lẫn lộn, dễ bị bỏ qua trong vô vàn những sự kiện liên quan tới chiến tranh.
Nói như trên không có nghĩa chiến tranh là một hiện tượng không thể hiểu được. Chúng ta vẫn có thể nghiên cứu mọi yếu tố cụ thể của một cuộc chiến tranh để tìm ra những quy luật riêng của nó. Người nghiên cứu cần có cách làm việc khách quan, khoa học, bám sát thực tiễn phức tạp và luôn biến đổi trên chiến trường và có tinh thần khám phá, sáng tạo. Khoa học và sáng tạo ở đây là từ thái độ, từ công phu nghiên cứu không dừng lại ở những giáo điều, không bằng lòng với những định lí, những kết luận đã ghi chép trong sách giáo khoa nào đó của các viện hàn lâm quân sự. Cần dám đào sâu suy nghĩ để phát hiện ra những kết luận mới, đúng đắn, những chân lí mới. Đây là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với giá trị nghiên cứu, đặc biệt là đối với cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, một cuộc chiến tranh không những mang trong nó những quy luật chung của chiến tranh mà còn có những quy luật độc đáo.
Tôi đã ôn lại những tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ, những nghị quyết của Đảng, của quân đội về thời kì đầu kháng chiến, những sự việc đã làm, đã chứng kiến hoặc đã biết, và một số kí ức, với hi vọng làm sáng tỏ một số vấn đề được nhiều người quan tâm.
Thành tựu của 5 năm chiến đấu giữa vòng vây bắt nguồn từ truyền thống hàng nghìn năm đấu tranh bất khuất, từ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường của nhân dân Việt Nam, mà Nguyễn Ái Quốc là người đại diện tiêu biểu ở đầu thế kỉ này. Người có một tư tưởng quán xuyến trong mọi sự nghiệp cách mạng: nhân dân là sức mạnh chủ yếu, sức mạnh quyết định. Cần phải tổ chức, phải đoàn kết lâu dài mọi người dân Việt Nam trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi với nòng cốt là công, nông và lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính. Như Người đã nói: Muốn lật đổ ách thống trị nô dịch của đế quốc, không chỉ là việc giết vài tên vua quan, cũng không thể là những cuộc khởi nghĩa dấy lên đơn độc, mà phải huy động sức mạnh của cả dân tộc và một cuộc vũ trang khởi nghĩa nổ ra đúng thời cơ. Phải thức tỉnh người dân làm cho họ thấy rõ cái nhục mất nước, con cháu Lạc Hồng không thể tiếp tục sống kiếp đọa đạy. Phải đấu tranh giành lại Tổ quốc, giành lại độc lập tự do. Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Và phải chỉ cho dân biết có thể giành thắng lợi lớn với cách đánh của dân tộc bị áp bức”: Cách đánh du kích, cách đánh du kích Việt Nam.
Giữa những ngày khó khăn thất bại của khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Bắc Sơn, cùng với nghị quyết lịch sử chuẩn bị vũ trang Tổng khởi nghĩa, Việt Nam độc lập đồng minh, mặt trận dân tộc thống nhất của nước Việt Nam đã ra đời tại núi rừng Pác Bó năm 1941. Những “làng hoàn toàn”, “tổng, huyện hoàn toàn”[8] cùng với những đội du kích, đội vũ trang đã hình thành và đứng vững trước khủng bố trắng ở Cao - Bắc - Lạng. Và Khu Giải phóng cùng với đội Quân Giải phóng đã sớm xuất hiện - hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam ngày mai trước Tổng khởi nghĩa. Đây chính là tiền đề cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kì sau này. Nó mang lại niềm tin cho những người cộng sản, khi đó mới có 5.000 đảng viên, có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi hoàn toàn.
Với thành công của Cách mạng tháng Tám, 25 triệu đồng bào ta trong cả nước nhất tề vùng lên với một khí thế xung thiên, trong một khoảnh khắc lịch sử đã cùng nhau đoàn kết thành một lực lượng chính trị hùng hậu của cả dân tộc. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nhà nước dân chủ nhân dân đã dựa trên nền tảng lực lượng đại đoàn kết dân tộc ấy, động viên và tổ chức đồng bào ta đứng lên chiến đấu để bảo vệ quyền độc lập mới giành được, bảo vệ quyền sống thiêng liêng và quyền mưu cầu hạnh phúc của mình.
Mặc dù không được chuẩn bị, đồng bào ta ở Nam Bộ bắt đầu chiến đấu với gậy tầm vông, đã đứng vững hơn một năm khi quân viễn chinh Pháp ồ ạt mở cuộc xâm lăng để cùng toàn dân tiếp tục kháng chiến suốt 30 năm liền đến ngày toàn thắng.
Tiếp đó, trong cuộc tổng giao chiến đầu tiên với quân đội viễn chinh Pháp, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quân và dân ta đã kết hợp những hình thức đánh nhỏ với trận địa hào lũy, kìm chặt quân địch tại các thành phố một thời gian, tạo điều kiện cho cả nước chuyển sang trạng thái chiến tranh, lập nên một chiến công hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng của những dân tộc nhược tiểu.
Chỉ một năm sau ngày cả nước kháng chiến, quân và dân Việt Bắc vận dụng những nguyên tắc chiến tranh toàn dân, đã đánh bại cuộc tiến công lớn đầu tiên, cũng là cuối cùng, của các binh đoàn tinh nhuệ Pháp vào căn cứ địa kháng chiến. Cùng với tiến công đánh bại những cuộc tiến công của những binh đoàn Pháp vào căn cứ Đồng Tháp Mười, chúng ta đã làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch.
Một năm 1948, triển khai chiến lược chiến tranh toàn dân biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, với những trận phục kích, diệt đồn, quấy rối của dân quân du kích và bộ đội địa phương, hoạt động nhiều mặt của các đội tuyên truyền xung phong và hàng trăm đại đội độc lập, những đợt phá tề trừ gian, những cuộc đấu tranh chính trị của đồng bào vùng địch hậu, lập lại chính quyền nhân dân, đã nhấn hơn một chục vạn quân Pháp vào thế bị động, sa lầy.
Sự trưởng thành của lực lượng vũ trang tập trung với những chiến dịch nhỏ, mở ra liên tiếp trên cả nước, đánh vào các đường giao thông, vào những hệ thống đồn bốt nhỏ cô lập ở miền rừng núi đã làm cho chiến lược chiến tranh đồn bốt của địch trở thành khó cứu vãn, đẩy quân Pháp vào thế bị động lâu dài, không tìm ra lối thoát cho chiến tranh tái chiếm thuộc địa.
Trên cơ sở đoàn kết đấu tranh của toàn dân, chúng ta đã từ lực lượng chính trị giải quyết vấn đề tổ chức và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, từ hàng triệu dân quân đến đông đảo bộ đội địa phương, và những trung đoàn, những đại đoàn chủ lực. Vấn đề đào tạo cán bộ chính trị, quân sự và kĩ thuật được coi là những nhiệm vụ trung tâm. Công tác chính trị, công tác Đảng được coi trọng; chế độ chính trị viên và chính ủy, chế độ lãnh đạo của Đảng được xác lập, bảo đảm cho bản chất cách mạng và tinh thần quyết chiến của bộ đội ta.
Với tinh thần quốc tế trong sáng, trong bối cánh cực kì khó khăn gian khổ, hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa, quân và dân ta đã hết lòng giúp đỡ quân và dân hai nước anh em Lào và Campuchia, coi sự nghiệp giải phóng của bạn như sự nghiệp của bản thân.
Chúng ta đã hết lòng giúp đỡ các đơn vị du kích Điền - Việt đã lúc tạm thời chuyển sang vùng căn cứ Việt Bắc; các đơn vị Quân đội nhân dân ta đã sát cánh với các đơn vị của Quân giải phóng Trung Quốc phối hợp chiến đấu, mở rộng vùng giải phóng ở Ung Châu và Thập Vạn Đại Sơn trước khi đại quân của bạn tiến sát biên giới.
5 năm chiến đấu trong vòng vây đã nói lên tinh thần quật khởi, sức sống mới của cả dân tộc được hồi sinh sau bao thế kỉ bị nô dịch. Chúng ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lập được chiến công và thành tích to lớn về mọi mặt.
Tổ quốc ta mãi mãi ghi công biết bao anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống trên chiến trường, biết ơn biết bao bà mẹ anh hùng đã có những hi sinh vô giá. Tổ quốc ta mãi mãi tự hào về tinh thần xả thân vì nước và dũng khí sáng tạo của đồng bào và chiến sĩ ta trong cả nước, trong những năm tháng vừa khó khăn thiếu thốn, vừa thiếu kinh nghiệm chiến đấu lúc bấy giờ.
Ở đây, tôi chỉ muốn nêu lên một thành tựu sáng tạo quan trọng vào bậc nhất là nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã từng bước xây dựng nên những nhân tố cơ bản của một nghệ thuật chiến tranh giữ nước và giải phóng của dân tộc nhược tiểu, đất không rộng, người chưa nhiều, có thể gọi là nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh: nghệ thuật chiến tranh nhân dân.
Tính chất toàn dân và toàn diện của cuộc chiến tranh là một sự phát triển sáng tạo lớn, chỉ có thể có được dưới sự lãnh đạo của một đảng tiên phong. Tính chất ấy được thể hiện rõ nét, cụ thể hóa thành phương châm hành động với lời lẽ giản dị mà vẫn hào hùng, đi ngay vào lòng của mỗi người dân, trong Lời hịch kêu gội toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19 tháng 12 năm 1946.
“
… Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kì đàn ông đàn bà, bất kì người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước
”.
Hai năm về trước, Người đã nói đến cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, trong bản Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22 tháng 12 năm 1944.
Chính với nghệ thuật chiến tranh toàn dân ấy, ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến, ta đã làm thất bại những biện pháp chiến lược chủ yếu của địch, đẩy quân đội xâm lược hiện đại của thực dân Pháp và thế bị động, làm thất bại mưu đồ tái chiếm Việt Nam bằng vũ lực của chúng.
Chúng ta có thể tự hào với sức sống tự lực lớn lao biết dường nào của dân tộc ta, nhân dân ta, qua những kì tích giành được trong 5 năm chiến đấu trong vòng vây.
*
Khó có những nhận định đúng đắn về một cuộc chiến tranh nếu chỉ nhìn từ một phía.
Trách nhiệm và quyền lợi của những quốc gia tham chiến, những người chỉ huy, yêu cầu khắc nghiệt giành chiến thắng buộc đôi bên tham gia phải che giấu sự không chỉ trong mà cả sau khi những hành động cừu nghịch đã chấm dứt. May thay thời gian bốn mươi năm đã giúp chúng ta khắc phục được một phần nhược điểm này. Thời kì chinh phục thuộc địa của Pháp đã đi vào quá khứ. Hồ sơ chiến tranh Đông Dương dần dần được mở ra. Công trình nghiên cứu của một số nhà sử học mấy năm gần đã đây cho chúng ta thấy được nội tình của đối phương trong cả cuộc chiến tranh để kiểm nghiệm lại đường lối, chủ trương của mình.
Trong chiến tranh Đông Dương, những chính phủ Pháp kế tiếp thường bị phê phán là không có một đường lối rõ rệt với cuộc chiến tranh này. Ngày nay, có thể thấy rõ những người cầm đầu chính phủ Pháp suốt những năm đó từ Sáclơ Đờ Gôn (Charles De Gaulle) tới Rơnê Maye (René Mayer) đều thống nhất một chủ trương rõ rệt: quyết tâm giành lại những thuộc địa đã mất, duy trì bằng mọi giá ba nước Đông Dương dưới quyền thống trị của Pháp, với hình thức một Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Do đó, họ không thể có bất cứ sự nhân nhượng nào đối với chính phủ Hồ Chí Minh, một chính phủ kiên quyết đòi độc lập, tự do, nhưng không hề bỏ qua một cơ hội nào để giải quyết vấn đề bằng thương lượng hòa bình. Những người cộng sản và xã hội cánh tả kiên trì đấu tranh đòi tôn trọng Hiệp định mồng 6 tháng 3 và điều đình với Chính phủ ta bao giờ cũng là thiểu số trong cơ quan hành pháp và lập pháp. Còn đối vối phong trào rộng lớn của nhân dân tiến bộ Pháp chống lại cuộc chiến tranh bẩn thỉu thì đường đương nhiên tập đoàn thực dân chủ chiến không hề đếm xỉa đến mà có khi còn thẳng tay đàn áp. Những cao ủy, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh chỉ là người thừa hành một nhiệm vụ cụ thể được trao; nếu không phải là Vanluy và Pinhông đã trực tiếp châm ngòi làm bùng nổ chiến tranh ra cả nước thì sẽ có những người khác. Như Alanh Ruýtxtíc (Alain Rucic) đã nhận xét: Độc lập cho Đông Dương là điều “không thể có trong tưởng tượng của Pari”. Nước Việt Nam chỉ còn cách duy nhất là cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do, Đây là sự lựa chọn của lịch sử.
Tự cho là một cường quốc công nghiệp với một quân đội hiện đại, đế quốc Pháp nhận đình rằng: dù suy yếu sau thế chiến thứ hai, họ vững tin có thể nhanh chóng tái chiếm Việt Nam bằng vũ lực, nhanh chóng đè bẹp chính quyền Việt Nam non trẻ cả về mặt quân sự, ngoại giao, tài chính. Họ cho rằng, chủ trương kháng chiến của Việt Nam chỉ là ảo tưởng. Chính sự đánh giá hoàn toàn sai lầm đó đã đưa họ từ thất bại này đến thất bại khác, mãi cả về sau. Đối với họ, vũ khí hoàn toàn có thể thắng con người, nhất là trong điều kiện đối đầu với họ chỉ là những đội du kích kém cỏi về mọi mặt; họ không hề mảy may có nhận thức rằng đương đầu với họ là cả một dân tộc. Đánh giá thấp sức mạnh của các dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do, đã trở thành một thuộc tính đối với chủ nghĩa đế quốc, kể cả đế quốc Mỹ sau này.
Vanluy là người đầu tiên đệ trình Chính phủ Pháp, từ trung tuần tháng 2 năm 1947, một quyết sách quân sự coi như có tính quyết định nhằm kết thúc chiến tranh Đông Dương bằng một cuộc tiến công lớn, đòn tiến công chớp nhoáng đánh vào căn cứ địa Việt Bắc với ba mục tiêu: tiêu diệt cơ quan đầu não, đập tan lực lượng vũ trang kháng chiến, phá hủy tiềm năng chiến tranh. Sau thất bại của cuộc tiến công Việt Bắc, quân Pháp vẫn chưa nhận ra là đã vấp phải một hình thức chiến tranh mới. Tại cơ quan tham mưu Pháp ở Hà Nội, người ta đưa ra kết luận: những cái gọi là “chính phủ”, “quân đội” chỉ là “trò bịp Việt Minh”. Không còn có “quân đội thường trực Việt Minh”!
Họ coi quyết sách quân sự nói trên là kế hoạch chiến lược đúng đắn duy nhất để tạo điều kiện cho công tác bình định, thực hiện có hiệu quả chủ trương sử dụng chính phủ bù nhìn cùng con bài độc lập giả hiệu, thực hiện chiến lược “dùng người Việt đánh người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Vì vậy, Vanluy còn cố gắng lần thứ hai, tiếp đó là Xalăng lần thứ ba, Bơlêdô lần thứ tư, đều nhằm chuẩn bị cho một cuộc tiến công tiêu diệt căn cứ địa Việt Bắc, những trước sự lớn mạnh của quân ta, cuộc tiến công chiến lược thứ hai vào Việt Bắc không hề xảy ra. Và từ tháng 6 năm 1949, phái đoàn Rơve, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, sau khi nghiên cứu tình hình chiến sự ở Đông Dương, đã đi đến kết luận: không còn khả năng giải quyết chiến tranh bằng quân sự, và cần từ bỏ cuộc tiến công trực tiếp vào khu căn cứ; quân đội viễn chinh Pháp chỉ còn con đường củng cố những tuyến phòng ngự, quay về những cuộc càn quét lớn ở đồng bằng, kiên trì cố thủ, chờ đợi một sự can thiệp của Mỹ nhằm quốc tế hóa chiến tranh.
Trong tác phẩm “Lịch sử chiến tranh Đông Dương” xuất bản năm 1972, tướng Yvơ Gra (Yves Gra), đã cho rằng nguy cơ thất bại đã đến với quân đội viễn chinh Pháp. Theo tác giả, thì từ tháng 9 năm 1948, người Việt đã bắt đầu ra tay trước bằng một loạt trận đánh du kích liên tục trên khắp Bắc Bộ. Và từ đầu năm 1949, tám mươi nghìn bộ đội chủ lực Việt Minh, mặc dù trang bị còn kém, cộng với một bộ phận dân chúng chiến đấu dưới sự điều khiển của họ đã làm lệch cán cân[9]. Những cuộc tiến công thực sự diễn biến theo một kế hoạch có quy mô nhất định, phối hợp những trận đánh đồng thời của nhiều tiểu đoàn, trung đoàn, trên khắp Bắc Bộ, chứng tỏ bộ đội Việt Minh đã đạt những tiến bộ lớn qua một năm. Cục diện chiến sự trên các chiến trường khác không có gì sáng sủa đối với quân Pháp.
Tháng 12 năm 1949, Tổng thống Pháp Vănhxăng Ôriôn hỏi tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Cácpăngchiê về những khả năng chiến lược ở Đông Dương. Tướng Cácpăngchiê đáp: “Không còn có khả năng chiến thắng quân sự. Chỉ còn một giải pháp chính trị”. Nhưng, như chúng ta đã biết, giải pháp chính trị từ “Nam Kỳ quốc” cho đến “con bài Bảo Đại” cũng đang đi đến phá sản.
Ngày nay, bốn mươi năm sau, những nhà sử học Pháp gần như thống nhất với nhận định: vào đầu năm 1950, “nước Pháp đã thất bại trong ý đồ tái chinh phục Việt Nam bằng quân sự” và “đã sa lầy trong một cuộc chiến tranh không có kết thúc và không thể chiến thắng”.
5 năm chiến đấu đầu tiên giữ một vị trí đặc biệt trong chiến tranh giải phóng và giữ nước hiện đại của Việt Nam.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bị bao vây bốn bề đứng vững và lớn lên trong lửa đạn. Chế độ dân chủ mới đưa lại độc lập, tự do và những quyền sống thiêng liêng của con người ngày càng được củng cố từ trung ương đến cơ sở và phát huy hiệu lực lớn lao trong kháng chiến. Cùng với kĩ nghệ quốc phòng có nhiều tiến bộ, nên kinh tế tự túc tự cấp đã vượt qua vô vàn khó khăn, đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc của nhân dân và bộ đội. Giáo dục và y tế được chú trọng. Nạn mù chữ bị đẩy lùi. Đồng bào vùng tự do có một đời sống văn hóa lành mạnh. Nhân dân kể cả trong vùng tạm chiếm, ai cũng thương anh bộ đội, căm thù quân cướp nước, kiên quyết kháng chiến tới thắng lợi cuối cùng. Một hậu phương như vậy đã cổ vũ người chiến sĩ hăng hái, dũng cảm chiến đấu ở tiền tuyến.
Từ những người nô lệ phá bỏ gông xiềng đứng dậy với đôi bàn tay trắng, nhân dân ta đã lao vào cuộc chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù, Chỉ qua 5 năm, chúng ta đã làm cho quân xâm lược lâm vào thế khốn quẫn, tiến thoái lưỡng nan. Chúng ta bắt đầu tích cực chuẩn bị lực lượng, tạo thời cơ giáng trả kẻ địch những đòn quyết định, điều mà chúng không làm được đối với ta.
Với sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, so sánh lực lượng giữa Đông và Tây đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho cuộc kháng chiến. Một chân trời mở rộng bên kia biên giới ở phía Bắc nước ta, báo hiệu một thời cơ mới, thế bị bao vây sẽ bị phá vỡ. Tuy nhiên, chiến tranh lạnh giữa Tây và Đông sẽ càng tăng. Thất bại trên lục địa Trung Hoa sẽ đẩy Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương để duy trì một tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á bằng cách giúp đỡ và tiến tới hất cẳng Pháp đã suy yếu sẽ gây cho ta những khó khăn mới trên con đường đi tới thắng lợi.
Chúng ta đã có một nghệ thuật chiến tranh toàn dân, toàn diện, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, một mặt trận chiến tranh nhân dân rộng khắp từ Nam chí Bắc, một lực lượng vũ trang bước đầu trưởng thành trong chiến đấu với sự phát triển đều của ba thứ quân. Chúng ta bắt đầu xây dựng những đại đoàn.
Những thành tựu và kinh nghiệm đã đạt được không những nói lên sức mạnh tự lực to lớn của dân tộc ta, mà còn nói lên tính chất độc lập tự chủ của lãnh đạo, hoàn toàn phù hợp với chiến tranh cách mạng ở nước ta. Những thành tựu và kinh nghiệm ấy cho phép chúng ta xây dựng một đường lối quân sự ngày càng hoàn chỉnh, đúng đắn và sáng tạo. Vừa tiếp tục phát huy lên chất lượng mới sức mạnh hi sinh chiến đấu và tự lực tự cường của dân tộc, vừa tranh thủ sự chi viện và giúp đỡ to lớn của các nước anh em, nhất là Trung Quốc và Liên Xô, sự đồng tình ủng hộ vô cùng rộng lớn của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Pháp, chúng ta đã biết tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để chiến thắng mọi kẻ thủ.
Thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc chiến tranh giữ nước và giải phóng 30 năm là thắng lợi vĩ đại đầu tiên trong lịch sử cận hiện đại thế giới, của một nước nhỏ thắng hai đế quốc to, của một dân tộc vốn là thuộc địa và nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu ở phương Đông đánh thắng những đạo quân hiện đại của các cường quốc phương Tây. Những thành tựu và kinh nghiệm của quân và dân ta trong 5 năm chiến đấu trong vòng vây là tiền đề và cơ sở đầu tiên của thắng lợi vĩ đại ấy.
Sẽ không có những kì tích của những năm chiến đấu trong vòng vây, nếu không có truyền thống đấu tranh bất khuất, tinh thần tự lực tự cường của dân tộc, không có sự lãnh đạo độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo, ngày càng dạn dày kinh nghiệm của Đảng ta, không có tư tưởng Hồ Chí Minh:
Dựa vào sức ta để tự giải phóng cho ta, Có dân thì có tất cả.
Trên đây là đôi điều tôi muốn nói khi kết thúc tập sách này.