Có rất nhiều ngày trong đời không làm gì cả, tắt hết đèn, nằm nguyên trong căn phòng của mình, mặc kệ những cuốn sách cũ lẫn mới vây quanh, mặc kệ ngoài phố ồn ào, bỏ quên những cuộc hẹn đã nhận lời - tôi nghĩ về thời gian. Thời gian đang ở đây, lúc này hay thời gian đang ở đâu? Có những câu hỏi ngớ ngẩn thế và chẳng bao giờ có được câu trả lời sao cho thỏa đáng. Thời gian đang ở đây cũng đúng. Mà thời gian ở nơi khác, không ở đây cũng đúng. Thời gian ở trong bản thân tôi lẫn thời gian không ở trong tôi. Tất cả đều ở thế lưỡng lự, lừng chừng.
Tôi là một con người yêu mến sự lừng chừng.
Khi tôi mua một món đồ bao giờ tôi cũng cân nhắc rất lâu, giữa lợi ích món đồ mang lại và giá tiền bỏ ra có nhiều không, cuối cùng bao giờ món đồ cũng nằm nguyên trên giá. Giữa một cuốn sách cũ và một cuốn sách mới tôi thường chọn sách cũ, dù là cùng tác giả, cùng nội dung, cuốn sách mới sẽ đọc dễ dàng hơn, hẳn rồi, nhưng rồi tôi lại chọn sách cũ, vì chúng có thời gian cất ở bên trong. Sách mới rồi cũng sẽ cũ đi chứ, nhưng chắc chắn chúng chẳng bao giờ đủ cũ như sách cũ được. Còn trong tủ quần áo thì quần áo cũ luôn được ưu tiên mặc trước thay vì quấn áo mới. Mẹ tôi bảo: “Phàm đồ vật dùng lâu đều có linh hồn”.
Tôi sinh năm 1989, cuối tháng sáu, mùa hè, quá trẻ để nghĩ bất cứ cái gì dùng lâu cũng có linh hồn. Nhưng sao tôi vẫn thích quần áo cũ, sách cũ hơn quần áo mới, sách mới. Ngay cả các mối quan hệ bạn bè cũng thế, bạn bè chưa đủ lâu thường khi gặp tôi chỉ biết im lặng, thấy mình thừa thãi. Hình như, tôi đang sử dụng thời gian theo cách của riêng tôi, rất không có ích. Tôi đã đọc nhiều bài viết về cách quản lí thời gian, về tuổi trẻ lãng phí, về những con người ù ù lì lì không hoài bão, lí tưởng. Lúc đọc có hơi “nhột”, đọc xong thì nghĩ họ chừa mình ra. Các bài viết đó viết cho ai đó chứ không phải cụ thể tôi, dù tôi khi đọc cũng đang tham gia vào bài viết.
Tranh Separation của Edvard Munch. |
Thời gian như một dòng sông, còn tôi ngồi trên bờ. Khi cần tôi nhảy xuống tắm táp, khi xong xuôi lên hóng gió chờ giấc ngủ bủa đến. Thời gian tức dòng sông vẫn đấy, tôi vẫn bên cạnh nó, chẳng thể khác hơn. Còn bảo lúc nào cũng phải tắm, ngụp lặn trong thời gian thì xin chịu, tôi sợ bị cảm, sợ nước mũi òng ọc đổ về không kiểm soát được.
Khi viết đến đây, đột nhiên tôi nhớ đến bố. Bố tôi mất mười năm sống với hình bóng người vợ cũ đã li dị, trước khi quyết định đến với người vợ sau là mẹ tôi bây giờ. Mười năm là một con số phiếm chỉ rất mơ hồ. Trong nhạc, trong thơ người ta thường nói đến con số mười năm. Vì nó tròn trịa, dễ nhớ hoặc nó đã đủ cho phần nào thử thách. Nếu tính cuộc đời con người là sáu mươi năm thì mười năm là một phần sáu. Một phần sáu cuộc đời với một mối tình vương mãi không dứt, nghĩ thôi tôi cũng đủ gai người.
Thế mà bố tôi cùng người vợ cũ của bố đã sống với hình bóng nhau mười năm, một người ở đầu này đất nước, một người ở đầu kia đất nước. Cái thời mà từ đầu này đi đến đầu kia cũng mất cả tháng trời chờ đợi mua vé, di chuyển. Thư từ qua lại bố tôi vẫn giữ đến bây giờ, cả hai vẫn còn hi vọng… cố nhiên. Chưa kể sợ thư hỏng bố còn chép lại các bức thư đan trong nhật kí của mình. Bố tôi có nhiều thời gian ư? Không, bố tôi có công việc nặng nhọc trong mỏ than, ngoài thời gian đó ông còn lên rừng lấy củi, vào núi xẻ đá, xuống ruộng bắt cá. Thế mà bố vẫn đều đặn ghi nhật kí, viết thư, tôi ước mình có được cuốn nhật kí của người vợ cũ của bố, có cả số thư mà họ đã trao đổi với nhau để hiểu về khoảng thời gian mười năm hai người đã sống, nghĩ, biến các xung đột khi ở cạnh nhau thành những câu bông đùa gợi nhớ.
Mười năm, sau ngày người vợ cũ dắt con đi giữa chiều mưa đất Bắc bố mới lấy mẹ, đẻ ra tôi bây giờ. Ở đầu kia đất nước khi vừa biết tin người vợ cũ cũng gạt nước mắt, nhanh chóng tìm cho mình một bến đỗ mới. Họ đã chờ nhau mười năm, hi vọng mười năm và chấm dứt mười năm. Khi viết truyện ngắn, tiểu thuyết tôi thường cố hư cấu về thời gian cho nhân vật của mình, cho tất cả có vẻ đau khổ. Nhưng tuồng lại chẳng bằng được khoảng thời gian mà những người thân, người tôi biết đã hiển nhiên chờ nhau. Thời gian chứa trong họ là thứ thời gian chậm rãi đến phi lí và đẹp đến tàn nhẫn.
Giờ, thế giới chuyển động nhanh hơn, thời gian con người cũng thế. Ăn nhanh, uống nhanh, làm tình cũng nhanh. Chẳng còn ai quan tâm đến mùi bản nguyên của người tình mình nữa. Cũng không ai ngồi tỉ mẩn viết thư đem ra bưu viện gửi rồi thấp thỏm đợi lá thư hồi âm quay về; run rẩy mỗi khi người đưa thư thấp thoáng đi qua trước ngõ. Giờ chỉ cần mở máy tính, gõ loang loáng, kích chuột gửi đi thế là xong. Chữ người A cũng giống chữ người B và vô vàn người dùng máy tính khác. Nhanh hơn nữa là một cú điện thoại, chát hình, chát tiếng.
Sự dai dẳng của ký ức - tranh của Salvador Dali. |
Tưởng thời gian được tiêu thụ nhanh thế con người sẽ thảnh thơi hơn làm điều mình muốn. Nhưng không, con người vẫn cứ bận rộn, thậm chí còn bận rộn hơn. Đến bữa cơm gia đình mà tay ai cũng nhoay nhoáy điện thoại, vừa nhìn màn hình vừa gắp, câu chuyện câu được câu chăng. Thế thì thời gian dư ra nhiều để làm gì? Thà rằng cứ mù mờ sống giữa các tin tức đưa đi nhận về; cần thì đến trực tiếp tìm nhau ở nhà; trong bữa ăn con kể chuyện trường lớp, bố mẹ kể chuyện ở cơ quan, rồi chuyện xóm giềng, ma tà như ngày xưa biết đâu tốt hơn.
Nhưng biết đâu lại chẳng có gì tốt hơn thì sao?
Tôi cũng chẳng dám chắc điều mình nói, như nhân vật Lãnh Út trong tác phẩm Chùa Đàn của nhà văn Nguyễn Tuân, sau cái chết vì tai nạn tàu hỏa của vợ mà đâm mù quáng thù ghét máy móc, cấm hết mọi người trong ấp Mê Thảo không được sử dụng vật dụng hiện đại. Điều tôi đang nghĩ, đang viết đây cũng có thể rất vu vơ, mù quáng. Gì mà thời gian với dòng sông, tắm rửa, gia đình này kia các thứ. Nếu có ai đọc, thấy vậy cũng tốt, mong là họ làm chủ được thời gian của mình. Chẳng như tôi, cứ mong mỏi một lần tìm về Mê Thảo, với Lãnh Út, Bá Nhỡ, cô Tơ, uống rượu, nghe đàn, nghe hát rồi hỏi họ: “Thời gian là gì?”.