Từ Bờ Bên Kia |
|
Tác giả | Alexander Ivanovich Herzen |
Bộ sách | Tinh Hoa Tri Thức |
Thể loại | Tiểu Luận |
Tình trạng | Hoàn Thành |
Định dạng | eBook prc pdf epub azw3 |
Lượt xem | 5116 |
Từ khóa | eBook prc pdf epub azw3 full Alexander Ivanovich Herzen Tinh Hoa Tri Thức Chính Luận |
Nguồn | tve-4u.org |
Thời kì Xô viết, hình tượng của Alexander Ivanovich Herzen (1812-1870) được tôn vinh như một nhà cách mạng tiền bối có nhiều ảnh hưởng trong thế kỉ XIX. Lenin nhận xét việc Herzen lập ra cơ quan ngôn luận tự do ở nước ngoài là một "công lao vĩ đại". Tuy nhiên, giá trị các trước tác của Herzen không được đề cao so với nhiều trước tác của các danh nhân khác cùng thời với ông. Ở phương Tây, một thời gian dài Herzen chỉ được biết đến như một người cấp tiến với niềm tin không-tưởng vào một hình thức cổ xưa của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, triết gia Anh Isaiah Berlin (1909- 1997), bằng những tiểu luận nổi tiếng của mình, đã làm thay đổi sự hiểu biết ở phương Tây về Herzen: Berlin khẳng định "Alexander Herzen là nhà văn chính trị Nga hấp dẫn nhất trong thế kỉ XIX", là "một trong ba người thuyết giảng đạo đức thiên tài của nước Nga", và là tác giả của một số trước tác sâu Sắc và hiện đại nhất về chủ đề tự do. Nhiều nội dung trong bài viết này được rút ra từ những tiểu luận của I. Berlin.
Alexander Ivanovich Herzen sinh ra Ở Moscow năm 1812, không bao lâu trước lúc Napoleon chiếm đóng thành phố. Cha ông là Ivan Yakovlev, một nhà quý tộc dòng dõi và giàu có, thuộc nhánh thứ của vương tộc Romanov. Trong một chuyến du lịch châu Âu, Ivan Yakovlev đã đưa về nước Nga một phụ nữ người Đức. Đó là Luiza Haag, một cô gái dịu dàng quê ở Stuttgart vùng Wurttemberg, con của một viên chức cấp thấp. Ivan Yakovlev đưa cô tới Moscow, lập địa vị bà chủ cho cô ở trong gia đình, nhưng không làm lễ cưới chính thức. Luiza Haag sinh cho ông một cậu con trai, ông đặt họ cho cậu là Herzen để bày tỏ rằng ông coi cậu như đứa con của trái tim ông, nhưng vì cậu không phải là con chính thức, nên không mang họ của ông. Herzen đã nhận được một sự giáo dục đầy đủ của một nhà quý tộc vào thời của ông từ những gia sư người Đức, người Pháp mà cha ông đã lựa chọn rất khe khắt. Herzen sớm tỏ ra là một cậu bé hiếu động và thông minh. Cha ông yêu ông theo một cung cách riêng, yêu nhiều hơn cả người con trai chính thức. Herzen được học văn chương và lịch sử Nga từ một sinh viên trẻ tuổi đầy nhiệt tình, được học tiếng Pháp (mà cha ông viết thạo hơn tiếng Nga) và tiếng Đức (là ngôn ngữ Herzen nói chuyện với mẹ ông). Herzen học lịch sử châu Âu từ một gia sư người Pháp tị nạn sang Nga sau cách mạng Pháp. Herzen thường chúi mũi vào vô số sách báo trong thư viện của cha ông, say mê đọc những tác phẩm của Pháp thời Khai sáng. Khi Herzen mười bốn tuổi, xảy ra sự kiện Nga hoàng Nicholas I xử tử các lãnh tụ cuộc Khởi nghĩa tháng Chạp. Sau này, Herzen tuyên bố sự kiện ấy là bước ngoặt trong cuộc đời ông; kí ức về những quý tộc tuẫn đạo vì một nền chính trị theo hiến pháp của nước Nga trở thành biểu tượng thiêng liêng đối với ông và nhiều người cùng thế hệ ông cho đến suốt đời.
Theo năm tháng, ông trở thành sinh viên trường Đại học Tổng hợp Moscow. Ông đọc Schiller và Goethe, lao vào nghiên cứu siêu hình học Đức - Kant và đặc biệt là Schelling, tiếp đó là trường phái lịch sử mới ở Pháp - Guizot, Augustin Thierry và cả những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - Saint Simon, Fourier, Leroux. Herzen tham gia vào nhóm sinh viên đọc các sách bị cấm và thảo luận những ý tưởng bị chính quyền Nga hoàng xem là nguy hiểm. Vì chuyện này ông đã bị bắt cùng nhiều sinh viên khác và bị kết án tù. Cha ông đã phải sử dụng ảnh hưởng của mình để cứu, nhưng Herzen vẫn bị lưu đày tới một nơi xa xôi gần biên giới ở châu Á. Ông lập gia đình trong thời gian này.
Năm 1842, ông được phép trở về Moscow, được xem như thành viên chính thức của giới trí thức trẻ cấp tiến và bắt đầu viết bài cho những tạp chí tiến bộ thời đó. Herzen luôn tập trung vào chủ đề chính: sự đàn áp con người cá nhân; sự hạ nhục và làm mất phẩm giá con người bởi chuyên chế chính trị và cá nhân; cái ách của tập quán xã hội, sự cai trị sai trái man rợ và tùy tiện cùng với sự ngu dốt tăm tối gây tàn phế và hủy hoại con người trong đế chế Nga tàn bạo và bỉ ổi.
Năm 1847, Ivan Yakovlev qua đời, để lại phần lớn tài sản cho Luiza Haag và Herzen. Với niềm tin vô bờ bến vào năng lực của mình cùng với quyết tâm làm được điều gì đó đáng kể cho thế giới, Herzen quyết định đi ra nước ngoài. Ngay trong năm đó Herzen rời nước Nga cùng với vợ ông, mẹ ông và hai người bạn, đi thăm nhiều nước châu Âu; cuối năm 1847 họ đến Paris, thủ đô của thế giới văn minh. Tại đây, Herzen lao vào cuộc sống của những người lưu vong cấp tiến và có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa đến từ nhiều quốc gia. Herzen cùng với Bakunin và Proudhon đứng ở phe cực tả cách mạng. Tiếng đồn về hoạt động của ông loan đến chính phủ Nga hoàng, và Herzen được lệnh phải lập tức trở về nước, nhưng ông đã từ chối. Cuộc sống của ông ở Pháp bị chấn động bởi những bi kịch gia đình: vụ ngoại tình của vợ ông và sau đó là cái chết của bà, vụ tai nạn đắm tàu do bão ở gần Marseille gây nên cái chết của mẹ ông và một người con. Herzen bị suy sụp nặng. Năm 1851, ông chuyển tới sống ở London.
Cái chết của Nga hoàng Nicholas I tạo điều kiện cho người bạn thân thiết nhất của ông là Nikolay Ogarev có thể rời nước Nga đến với ông. Họ cùng nhau ra một tạp chí tiếng Nga lấy tên là Ngôi sao Bắc cực - cơ quan ngôn luận đầu tiên chuyên cổ động không khoan nhượng chống lại chế độ chuyên chế Nga hoàng. Những chương đầu của tác phẩm mang tính tự truyện Quá khứ và suy tư (Boloe i đumo) được công bố trên tạp chí này. Hoạt động chính mà vì nó Herzen hiến dâng cả cuộc đời, đó là báo chí cách mạng. Phần chủ yếu của hoạt động ấy là tạp chí Quả chuông (Kolokol) được Herzen và Ogarev thực hiện, lúc đầu ở London sau đó ở Geneva, từ năm 1857 đến 1867. Tạp chí đã thành công rất lớn. Đây là một công cụ có tính hệ thống của tuyên truyền cách mạng nhằm chống lại chế độ chuyên chế Nga hoàng, được viết với sự hiểu biết đầy thuyết phục. Herzen sử dụng những thông tin phong phú từ những nguồn cá nhân bí mật chuyển đến ông, để mô tả những hành vi tội ác của bộ máy quan liêu Nga. Tờ báo Quả chuông gọi đích danh các thủ phạm, đưa ra những bằng chứng không thể phủ nhận, đặt ra những câu hỏi hóc búa và vạch trần những mặt khuất của đời sống Nga. Nhiều du khách Nga đến thăm London chỉ để đuợc gặp những người làm báo Quả chuông. Cả những vị tuớng cùng các quan chức cao cấp của Đế chế cũng đến để được nhìn thấy Herzen tận mắt; một số vì tò mò, số khác đến bắt tay ông để bày tỏ cảm tình. Tờ báo đạt đỉnh cao thành công cả về chính trị lẫn văn chương sau cái chết của Nga hoàng Nicholas I năm 1855. I.Berlin đã nhận xét về thành công của tờ Quả chuông như sau: "Trong tạp chí nổi tiếng nhất của Herzen tên là Quả chuông, ông đề cập đến tất cả mọi chuyện có tính thời sự. Ông vạch trần, ông tố cáo, ông chế giễu, ông thuyết giảng, ông trở thành một Voltaire của nước Nga giữa thế kỉ XIX. Ông là một nhà báo thiên tài, và các bài báo của ông được viết với sự xuất sắc, tươi tắn và đầy cảm xúc, dẫu bị cấm đoán chính thức, nhưng vẫn lưu hành ở nước Nga và được đọc bởi cả những người cấp tiến lẫn những người bảo thủ. Quả thực người ta có nói là chính Nga hoàng cũng đọc chúng; chắc chắn là một số viên chức của Nga hoàng đã đọc; vào thời vàng son của đỉnh cao danh tiếng, Herzen đã tạo nên một ảnh hưởng đích thực trong bản thân nước Nga - một hiện tượng chưa từng nghe tới của một người sống lưu vong - bằng cách vạch trần những lạm dụng xấu xa, gọi tên đích danh các thủ phạm, nhưng trên hết cả là bằng sự viện dẫn đến tình cảm tự do vẫn chưa hoàn toàn chết hẳn, ngay cả ở chính trong giới quan liêu của Nga hoàng, ít nhất cũng trong khoảng thời gian từ 1850 đến I860."
Năm 1858, Herzen kêu gọi Nga hoàng mới, Alexander II, tiến hành cải cách từ bên trên, hợp tác với những người đối lập để mở ra một kỉ nguyên mới cho nước Nga. Nhưng niềm hi vọng này của Herzen đã nhanh chóng tan biến trước sự tàn nhẫn của chế độ Nga hoàng. Trung thực với những lí tưởng chính trị chống áp bức của mình, Herzen đã không do dự bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan năm 1863, dù ông ý thức được những hậu quả nguy hại cho ông từ phía những người Nga yêu nước quá khích. Làn sóng dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi ở Nga đi kèm với cuộc đàn áp của quân đội Nga hoàng dập tắt cuộc khởi nghĩa, đã khiến Herzen mất đi cảm tình của công chúng Nga, ngạy cả ở những người thuyết giảng tự do. Tờ Quả chuông mất đi nhiều độc giả. Thế hệ mới những người cách mạng trẻ tuổi ở Nga không còn ngưỡng mộ ông nữa. Herzen rời London vào cuối những năm 60 và trở về Pháp. Ông quay lại Paris và mất ở đó vì bệnh viêm màng phổi vào năm 1870. Thi hài ông được đưa về Nice, được thiêu và chôn cất bên cạnh vợ ông.
***
Herzen thuộc về một thế hệ nhân tài đặc biệt trong lịch sử văn hóa châu Âu thế kỉ XIX. Đa số những người này sinh trưởng trong giới quý tộc, nhưng bản thân họ vươn tới tầm cao vượt trên giai cấp của mình, đạt tới một khuynh hướng tự do và cấp tiến trong tư duy và hành động. Nhà văn Turgenev gọi họ là "những người thừa". Trong tự truyện của mình, Herzen cũng mô tả tình cảnh những người trẻ tuổi Nga bị kích thích bởi những ý tưởng mới mẻ đến từ nhiều nguồn: những thuyết giảng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, triết học Đức, những sách báo đến từ phương Tây, những cuộc trò chuyện ngẫu nhiên... Nhưng họ lại phải sống trong một xã hội ngột ngạt khiến cho ngay cả việc mơ mộng tạo cho đất nước mình những định chế ôn hòa, vô hại, vốn từ lâu đã trở thành nếp sống ở phương Tây, cũng trở thành chuyện lố bịch tức cười. Tình trạng khủng hoảng tinh thần như vậy đã khiến cho nhiều người trong số họ khi bước vào tuổi trung niên thường trở thành những điên chủ bất mãn ôn hòa, sống bằng tài sản của mình, mỗi ngày lần giở từng trang tạp chí gửi về từ nước ngoài với sự nuối tiếc những mộng mơ tuổi thanh xuân. Đó là những mẫu hình hay gặp trong các tiểu thuyết Nga thời kì này. Herzen quyết tâm không để mình rơi vào tình trạng ấy; ông khao khát làm được điều gì đó đáng ghi nhớ cho bản thân mình và cho đất nước mình.
Giống như nhiều sinh viên cùng thời, Herzen chịu nhiều ảnh hưởng của Hegel trong thời kì học Đại học Tổng hợp Moscow. Thế nhưng ông đã chuyển học thuyết của Hegel thành một thứ gì đó đặc biệt, riêng cho bản thân ông, rất khác với những kết luận lí thuyết mà những đầu óc nghiêm chỉnh và nệ quy tắc cùng thời với ông đã diễn dịch ra từ học thuyết nổi tiếng ấy. Có vẻ như học thuyết Hegel đã khiến Herzen tin rằng không có một lí thuyết chuyên biệt nào hay học thuyết đơn lẻ nào, không có một diễn giải cuộc sống nào, và trên hết, không có một sơ đồ đơn nhất, mạch lạc, hoàn hảo nào, lại có thể được quan niệm là những lời giải đích thực cho những vấn đề hiện thực. Ông là người hoài nghi, dường như ông đã tin rằng về nguyên tắc không thể có được lời giải đáp chung cuộc đơn giản nào cho bất cứ vấn đề đích thực nào của con người; rằng nếu một câu hỏi là nghiêm chỉnh và thực sự đau đớn khắc khoải, thì lời giải đáp không bao giờ có thể là rõ ràng và rành mạch, giống như các kết luận rút ra bằng cách diễn dịch từ một tập hợp các tiên đề hiển nhiên tự thân. Dường như Herzen tin rằng nếu người ta nghiên cứu cuộc sống một cách đúng mực, không thiên kiến và khách quan, rất có thể người ta có khả năng tạo ra được một độ căng nào đó, một thứ thỏa hiệp biện chứng giữa những lí tưởng đối lập nhau; bởi vì nếu như không có lí tưởng nào có thể được thực hiện thật đầy đủ và trọn vẹn, thì cũng không có lí tưởng nào đáng bị bỏ rơi hoàn toàn; chỉ có như vậy người ta mới có thể hiểu được cuộc sống một cách sâu sắc hơn so với trường hợp cứ cam kết liều lĩnh đi theo một thứ cực đoan nào đó.
Herzen nhìn thấy sự nguy hiểm của việc lạm dụng những khái niệm đao to búa lớn nhằm kích động con người lao vào những xung đột bạo lực vô nghĩa - những thần tượng mới được đặt lên bàn thờ tương lai sẽ đòi hiến tế máu người một cách phi lí giống như máu của những nạn nhân trước đây đã bị hi sinh cho nhà thờ hay nền quân chủ phong kiến. Mọi mưu toan hiến dâng con người cho bất cứ khái niệm trừu tượng nào, dẫu cho nó thật cao quý - công bằng, tiến bộ, dân tộc - ngay cả khi nó được thuyết giảng bởi những người thật vị tha như Mazzini hay Louis Blanc hay Mill, cũng sẽ luôn luôn dẫn đến kết cục của việc đàn áp và hi sinh con người. Cuộc sống của con người và các mối quan hệ là quá phức tạp cho một công thức chuẩn mực và những lời giải rành mạch. Những toan tính làm cho các cá nhân thích ứng và khớp vào một sơ đồ duy lí lí thuyết, dù có đầy thiện ý, thì cuối cùng cũng dẫn đến việc gây tàn tật cho con người, dẫn đến việc giải phẫu sinh thể chính trị con người với quy mô ngày càng tăng. Herzen luôn cho rằng mục đích của cuộc sống chính là bản thân cuộc sống; hi sinh hiện tại cho một tương lai mơ hồ không thể tiên liệu được chính là một hình thức của ảo tưởng dẫn đến hủy hoại tất cả những gì là giá trị duy nhất nơi con người và xã hội - dẫn đến sự hi sinh vô cớ máu thịt của đời sống con người trước bàn thờ của những khái niệm trừu tượng của lí tưởng. Herzen nổi loạn chống lại những gì đang được thuyết giảng bởi những người tốt đẹp nhất và có trái tim trong sạch nhất ở thời đại ông, đặc biệt là những nhà xã hội chủ nghĩa và công lợi chủ nghĩa. Các vị này cho rằng những đau khổ to lớn hiện nay phải được vượt qua vì hạnh phúc lớn lao không sao diễn tả nổi trong tương lai, cho nên hàng ngàn người vô tội có thể buộc phải bị chết để cho hàng triệu người có thể được hạnh phúc; họ khẳng định có một tương lai tuyệt đẹp sắp xảy ra cho loài người và điều đó được lịch sử đảm bảo, cho nên điều đó biện minh cho những sự tàn ác kinh khủng thời hiện tại - cái thuyết mạt thế chính trị quen thuộc dựa trên niềm tin vào sự tiến bộ tất yếu, đối với Herzen có vẻ như là một học thuyết đầy tai họa nhằm chống lại cuộc sống nhân bản.
Những ý tưởng trên của Herzen về chủ đề này được viết một cách sâu sắc nhất và lỗi lạc nhất trong tác phẩm Từ bờ bên kia. I. Berlin đã nhận định về tác phẩm này như sau: "Tuyệt tác vĩ đại mang tính bút chiến ấy là những tuyên ngôn trung thành và lời di chúc chính trị của ông. Giọng điệu và nội dung của nó được truyền tải rõ ràng trong trích đoạn đặc trưng (và nổi tiếng), ở đó ông tuyên bố rằng không được bắt một thế hệ phải đóng vai trò đơn thuần là phương tiện cho hạnh phúc của những con cháu xa xôi của họ, cái hạnh phúc không chắc chắn chút nào. Một mục tiêu xa vời là trò lừa bịp và lời dối trá. Những mục tiêu thực sự phải gần hơn cái - "ít nhất cũng là tiền lương hay khoái cảm trong lao động". Mục đích của mỗi thế hệ là ở trong bản thân thế hệ ấy - mỗi cuộc đời có trải nghiệm độc đáo riêng của nó; sự thực hiện những nhu cầu của nó tạo nên những nhu cầu mới, những yêu sách mới, những hình thức mới của cuộc sống."
Những suy tuởng của Herzen trong tác phẩm Từ bờ bên kia xoay quanh các biến cố lịch sử quan trọng ở châu Âu năm 1848 mà ông đuợc chứng kiến ngay tại Paris: cách mạng nổ ra ở hàng loạt các nước châu Âu như Pháp, Ý, Đức nhưng sau đó đều bị thất bại. Những biến cố ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến Herzen cũng như toàn bộ phong trào cách mạng ở Nga, dẫn đến một khuynh hướng tìm kiếm con đường riêng cho nước Nga. Họ cho rằng các đảng phái theo chủ nghĩa tự do ở phương Tây đã không hiểu và không quan tâm đến những lợi ích cơ bản của dân chúng bị áp bức. Dân chúng đói khổ cần được ăn no mặc ấm, còn các quyền chính trị và các định chế cộng hòa đều vô nghĩa đối với những con người ngu tối, man rợ và đói rách. Tuy nhiên, nhận thức của Herzen rất khác biệt với những nhà cách mạng trẻ Nga theo chủ nghĩa hư vô sau này.
Herzen nhìn thấy mô thức xã hội phương Tây hiện hữu ở thế kỉ XIX đã bước vào thời kì suy tàn vì những mâu thuẫn nội tại của nó. "Chúng ta đau lòng thú nhận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới đã trở nên lẩn thẩn, già nua, tàn tạ, rõ ràng đã mất hết sức lực và tư cách để vươn lên tầm cao tư tưởng của chính nó...". Nhưng ông đánh giá cao những thành tựu của văn minh phương Tây trong quá khứ, mặc dù nó đã đạt được trên cơ sở bất công xã hội: "Toàn bộ học vấn của chúng ta, sự phát triển văn chương và khoa học của chúng ta, tình yêu của chúng ta đối với cái đẹp, những công việc bận rộn của chúng ta đòi hỏi phải có môi trường luôn được dọn sạch bởi những người khác; cần có lao động của ai đó để cho chúng ta có được sự thư nhàn, cần thiết cho sự phát triển tâm lí của chúng ta, cái sự thư nhàn ấy, cái vô tích sự đầy hoạt động ấy, vốn làm cho nhà tư tưởng có khả năng tập trung bản thân, làm cho thi sĩ mơ mộng, làm cho người hưởng lạc được tận hưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển rực rỡ, đỏng đảnh, thơ mộng, phong phú của các cá nhân quý tộc chúng ta." Ông tin rằng những định chế bất công của xã hội sẽ bị xóa bỏ, nhưng ông tiếc thương cho nền văn minh xưa cũ vì ông biết rằng đám quần chúng sẽ không tiếc thương nó; bởi nó chẳng đem lại gì cho họ ngoài nước mắt, sự thiếu thốn và sự hạ nhục. Những nhà cách mạng Nga dân túy theo chủ nghĩa hư vô sau này sẽ không còn tiếc thương nền văn minh xưa cũ bởi vì nó đã không phục vụ cho quần chúng nhân dân; xét từ quan điểm chủ nghĩa công lợi bị thổi phồng thì nền văn minh đỉnh cao ấy chẳng có giá trị gì. Nhà cách mạng Pisarev sẽ nói rằng toàn bộ các vở kịch của Shakespeare không có giá trị bằng một đôi ủng. Những người trong phong trào "Prolekult" (Văn hóa vô sản) sau cách mạng 1917 sẽ đòi đoạn tuyệt với di sản văn hóa của bọn bóc lột để xây dựng một nền văn hóa riêng cho những người vô sản.
Herzen không tôn quần chúng nhân dân lên vai trò của Thượng Đế như các nhà cách mạng dân túy sau này. Ông phê phán những người thuyết giảng tự do đã "bịa đặt ra dân chúng hơn là nghiên cứu dân chúng". Ông tỉnh táo nhận xét: "Các khối quần chúng muốn chặn bàn tay trâng tráo giật miếng bánh mì mà họ làm ra, - đó là nhu cầu chủ yếu của họ. Họ thờ ơ với tự do cá nhân, độc lập ngôn luận; quần chúng ưa thích quyền uy, sự choáng lộn đầy nhục nhã của quyền lực vẫn còn làm cho họ lóa mắt, con người đứng độc lập vẫn còn sỉ nhục họ; họ hiểu bình đẳng là cái ách chia đều; trong khi e ngại độc quyền và đặc quyền, họ vẫn lườm nguýt tài năng và bắt ép người ta phải làm theo những gì mà đám quần chúng đang làm. Quần chúng mong muốn một chính phủ xã hội cai trị họ vì họ, chứ không chống lại họ như chính phủ hiện nay. Tự quản lí bản thân là chuyện họ chưa hề nghĩ tới". Ông còn nhận xét: "Người ta cứ tưởng rằng chỉ cần chứng minh chân lí, như chứng minh định lí toán học, là người ta sẽ tiếp thu nó; chỉ cần tự mình tin tưởng là những người khác cũng tin tưởng. Hóa ra hoàn toàn khác, một số người nói một điều, còn những người khác lắng nghe họ và hiểu ra điều khác, bởi vì sự phát triển của họ khác nhau. Những người Kitô giáo đầu tiên đã rao giảng cái gì và đám đông đã hiểu thành cái gì? Đám đông đã hiểu tất cả những gì không thể hiểu được, tất cả những gì phi lí và huyền bí; nhưng tất cả những gì là sáng tỏ và giản dị thì nó không tiếp thu được; đám đông tiếp nhận tất cả những gì ràng buộc lương tâm nhưng không tiếp nhận những gì giải phóng con người. Cũng theo cách thức như vậy mà sau này nó đã hiểu cách mạng chỉ là một cuộc trừng phạt đẫm máu, là máy chém, là sự trả thù..."
Herzen bác bỏ mọi quan niệm cứu cánh luận về lịch sử - những quan niệm cho rằng lịch sử loài người hướng tới một mục đích nào đó. Ông đặt ra câu hỏi: Giả sử một sao chổi đâm vào chúng ta và kết liễu cuộc sống trên trái đất thì sao? Liệu lịch sử có không là vô nghĩa nữa chăng? Liệu đó sẽ không phải là một lời nhạo báng độc ác cho tất cả những nỗ lực của chúng ta, tất cả những máu, mồ hôi và nước mắt của chúng ta hay chăng? Herzen đáp lại rằng suy nghĩ theo dạng thức ấy là một sự thô thiển rất lớn, sự thô thiển của những con số đơn thuần. Cái chết của một con người đơn lẻ cũng phi lí và không thể hiểu nổi như cái chết của toàn thể loài người; đây là sự huyền bí mà chúng ta chấp nhận; đơn thuần nhân nó lên thật lớn và hỏi "giả sử như hàng triệu con người chết đi?" thì cũng không làm nó huyền bí hơn nữa hay đáng sợ hơn nữa. Ông viết: "Trong thiên nhiên cũng giống như trong tâm hồn con người có vô số những sức mạnh, những khả năng đang lim dim ngủ; chỉ cần hội đủ những điều kiện, chúng phát triển và sẽ phát triển đến cực độ, chúng sẵn sàng tràn ngập thế giới, nhưng chúng cũng có thể vấp ngã giữa đường, chuyển sang hướng khác, dừng lại, bị hủy diệt... Thiên nhiên thì thế nào cũng vậy thôi... [Nhưng anh có thể hỏi] tất cả những thứ ấy để làm gì vậy? Cuộc sống của các dân tộc trở thành một trò chơi vớ vẩn, kết nặn lại, kết nặn lại từng viên đá một, từng hạt cát một, rồi ngay sau đó mọi thứ lại đổ sập xuống đất, người ta bò lê lết dưới đống đổ nát, bắt đầu dọn dẹp đất trống để dựng những túp lều bằng lau sậy, từ những tấm ván và cây cột đã đổ, bằng lao động dài lâu nhiều thế kỉ - rồi lại sụp đổ. Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare đã nói rằng lịch sử là một câu chuyện tẻ nhạt do một gã ngốc kể lại.[1]
... [Đáp lại điều này tôi nói rằng] anh giống những con người đa cảm không cầm được nước mắt nói rằng "con người sinh ra là để chết đi". Cứ nhìn vào sự kết thúc mà không nhìn vào sự việc - ấy là sai lầm to lớn nhất. Vành hoa kia rực rỡ, hương thơm kia ngây ngất mà để làm gì, khi nó vô ích? Thế nhưng thiên nhiên đâu có buồn tẻ đến thế và cũng chẳng coi thường người đi ngang qua đích thực, thiên nhiên ở mỗi điểm đều đạt được tất cả những gì khả dĩ đạt được... Ai mà lại giận dữ thiên nhiên vì những bông hoa sớm nở tối tàn, vì hoa hồng và hoa huệ không có sự bền chắc của đá lửa? Và chúng ta còn muốn đưa cái nhìn tầm thường thảm hại ấy sang thế giới lịch sử nữa! ... thế nhưng cuộc sống không có bổn phận phải thực hiện những điều tưởng tượng và những ý tưởng [của nền văn minh]... cuộc sống ưa thích điều mới lạ...
... Lịch sử hiếm khi lặp lại, nó sử dụng đủ thứ bất ngờ, cùng lúc gõ vào cả ngàn cánh cửa... những cánh cửa nào sẽ mở ra... ai mà biết được?"
Rồi ông lại viết: "Con người có tình yêu bản năng với chuyện duy trì mọi thứ anh ta thích; sinh ra là muốn sống trường thọ; có tình ý là muốn yêu và được yêu suốt đời, cứ mãi như giây phút tỏ tình đầu tiên... cuộc sống không bảo đảm cả cuộc sống lẫn khoái cảm, không có trách nhiệm kéo dài chúng mãi. Vì thế mà mỗi giây phút lịch sử đều đầy đặn, khép kín theo cách thức của nó, giống như năm nào cũng có mùa xuân và mùa hạ, mùa đông và mùa thu, với dông bão và trời đẹp. Vì thế mà mỗi thời kì đều mới mẻ, tinh khôi, chan chứa những hi vọng của mình, tự mang trong nó niềm hạnh phúc và nỗi đau buồn, hiện tại thuộc về nó, nhưng người ta vẫn thấy thế còn ít, người ta còn muốn cả tương lai cũng là của họ nữa...
Thế mục đích của bài ca mà cô ca sĩ đang hát là gì?... Nếu như anh, ngoài việc tận hưởng chúng, lại kì vọng sau khi ca sĩ hát xong anh vẫn còn lại hoài niệm và nỗi ân hận, nếu anh thay vì lắng nghe lại cứ chờ đợi điều gì đó... Những phạm trù đánh lạc hướng anh, chúng nắm bắt cuộc sống rất tệ. Anh hãy suy nghĩ xem: cái mục đích ấy là gì, [ông có ý nói Mazzini, những người thuyết giảng tự do và những người xã hội chủ nghĩa] là cương lĩnh, là mệnh lệnh chăng? Ai đã soạn ra nó, nó tuyên cáo cho ai, nó có nhất thiết phải vậy hay không? Nếu đúng vậy thì chúng ta là gì, là những con rối hay là người, là những, hữu thể tự do về đạo đức hay là những bánh xe trong cỗ máy? Đối với tôi thì sẽ dễ dàng hơn, nếu xem cuộc sống, và do đó cả lịch sử nữa, là mục đích đã thành tựu chứ không phải là phương tiện cho thành tựu."
Và còn nữa: "Chúng ta cứ tưởng mục đích của trẻ con là tuổi thành niên, trong khi mục đích của trẻ con có lẽ là chơi đùa, tận hưởng, làm trẻ con. Nếu như nhìn vào giới hạn, thì mục đích của mọi sự sống là cái chết."
Đây là luận đề chính trị và xã hội chủ yếu của Herzen, và do đó nó đi vào dòng chảy của tư duy cấp tiến Nga như một liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa công lợi bị thổi phồng. Goethe đã bảo chúng ta rằng không có đảm bảo, không có an toàn. Đáng lẽ con người phải hài lòng với hiện tại, nhưng con người lại cứ muốn sở hữu cả tương lai nữa. Đó là câu trả lời của Herzen cho Mazzini, hay những nhà xã hội chủ nghĩa vào thời của ông, kêu gọi những hi sinh và đau khổ cao nhất vì dân tộc, vì nền văn minh nhân bản, vì chủ nghĩa xã hội, công bằng, nhân đạo - nếu chưa phải cho hiện tại, thì cũng cho tương lai.
I. Berlin đã bình luận về lập trường của Herzen trong vấn đề này như sau: "Herzen bác bỏ kịch liệt điều này. Mục đích của cuộc đấu tranh cho tự do không phải là cho tự do của ngày mai, đó là tự do của hôm nay, tự do cho những cá nhân đang sống với những mục đích riêng của họ, những mục đích mà họ vận động và đấu tranh và có thể chết vì chúng, những mục đích là thiêng liêng đối với họ. Nghiền nát tự do của họ, những mưu cầu của họ, phá hủy những mục đích của họ vì một hạnh phúc lớn lao mơ hồ nào đó trong tương lai, là thứ không thể đựợc đảm bảo, chúng ta không biết gì về nó, nó chỉ đơn thuần là sản phẩm của một tòa nhà siêu hình khổng lồ nào đó mà chính tòa nhà ấy cũng chỉ đứng trên cát, không có một đảm bảo logic, hay đảm bảo thường nghiệm, hay bất cứ đảm bảo duy lí nào - làm như thế trước hết là mù quáng, bởi vì tương lai là bất định, thứ nữa làm như thế là xấu xa độc ác, bởi vì nó vi phạm vào những giá trị đạo đức duy nhất mà chúng ta biết; bởi vì nó giẫm đạp lên những nhu cầu nhân bản nhân danh những khái niệm trừu tượng - tự do, hạnh phúc, công bằng - là những khái quát cuồng tín, những âm thanh huyền bí, những tập hợp ngôn từ được sùng bái."
Herzen cho rằng một trong những tai họa sâu sắc nhất thời hiện đại là bị kẹt vào những khái niệm trừu tượng thay cho hiện thực. Và ông giữ quan điểm này chủ yếu để chống lại người bạn thân của ông là Bakunin, người kiên trì kích động nổi loạn bạo lực, lôi kéo theo sự tra tấn và tuẫn đạo vì những mục tiêu lờ mờ, lộn xộn và xa xôi. Đối với Herzen, một trong những tội ác lớn nhất mà con người có thể phạm phải, ấy là trút gánh nặng trách nhiệm đạo đức từ vai của chính mình sang vai của một trật tự tương lai không thể tiên đoán, và nhân danh một thứ gì đó có khi chẳng bao giờ xảy ra, phạm những tội ác mà ai cũng cho là ghê tởm nếu nó làm vì một mục đích vị kỉ nào đó, nhưng lại không phải thế chỉ vì nó được chuẩn y bởi lòng tin vào một Không tưởng xa xôi, không ai hiểu thấu. Vì tất cả sự căm ghét của ông đối với nền chuyên chế, nhất là chế độ chuyên chế Nga, suốt cuộc đời mình, Herzen đã nhận ra rằng, những nguy cơ đầy tai họa đe dọa cũng đến từ phía các đồng minh xã hội chủ nghĩa và cách mạng của chính ông. Vì rằng chính Herzen cũng đã có lần tin vào những nền tảng ấy (dù chưa bao giờ với niềm tin đơn giản và tuyệt đối) và bởi vì niềm tin ấy đã đổ nhào và bị phá hủy hoàn toàn trong những biến cố khủng khiếp của năm 1848 và 1849, trong những biến cố ấy hầu như mọi thần tượng của ông đều chứng tỏ họ có chân bằng đất sét. Ông nhận xét: "Khổ nỗi là ý tưởng luôn chạy lên trước, dân chúng không theo kịp các ông thầy của mình; lấy ví dụ như thời bây giờ: một vài người đề cập đến cuộc lật đổ mà cả chính họ lẫn dân chúng đều không đủ sức làm. Những người tiên tiến cứ tưởng rằng chỉ cần họ hô lên: "Hãy vùng lên và đi theo chúng tôi" - thế là mọi sự chuyển động; họ đã lầm, nhân dân ít hiểu họ cũng hệt như họ ít hiểu nhân dân, người ta không tin họ. Không nhận ra là chẳng có ai đi theo mình, những người này cầm đầu, tiến lên phía trước; khi chợt tỉnh ra, họ la hét những người ở lại sau, vẫy tay, kêu gọi, trách móc họ - nhưng đã muộn rồi, khoảng cách quá xa, tiếng nói không tới được, ngôn ngữ lại cũng không phải là thứ mà quần chúng vẫn nói." Ông còn nói: "Các anh cứ tưởng rằng ngoài những con đường do các anh phát hiện ra thì thế giới không sao cứu rỗi được; các anh muốn vì sự tận tụy của các anh thì thế giới phải nhảy múa theo điệu nhạc của cây sáo mà các anh thổi, và chỉ vừa thấy nó có bước đi và có nhịp điệu khác là các anh nổi giận, các anh tuyệt vọng, các anh thậm chí không thèm tò mò nhìn điệu nhảy múa của nó." Ông kết luận: "Căm ghét vương miện còn chưa đủ, cần phải không kính trọng cả kiểu mũ Phrygie nữa..."[2]
Ông khiếp hãi những kẻ đàn áp, nhưng ông cũng khiếp hãi cả những người giải phóng nữa. Ông khiếp hãi những người giải phóng bởi vì đối với ông, họ là những người kế thừa thế tục của những kẻ mang niềm tin tôn giáo mù quáng ở thời đại của đức tin - những kẻ duy có một sơ đồ khô cứng, một cái áo trói buộc muốn áp đặt lên loài người như một phương thuốc duy nhất khả dĩ chữa mọi bệnh tật. Ông cũng biết rằng lời biện minh không ngớt của chính ông cho tự do cá nhân, chứa đựng những mầm mống của việc biến xã hội thành tập hợp các nguyên tử, rằng một thỏa hiệp cần phải có cho hai nhu cầu xã hội vĩ đại - cho sự tổ chức và cho tự do cá nhân - một sự cân bằng không bền vững nào đó khả dĩ gìn giữ được một không gian tối thiểu mà ở trong đó cá nhân có thể tự thể hiện mình mà không bị "nghiền nát thành bột". Và ông đã phát biểu rất lôi cuốn về cái mà ông gọi là giá trị của thói vị kỉ. Cái mà những người giảng đạo đức cố sức phủ nhận chính là cái thành trì nội tâm vĩ đại của nhân phẩm con người. "Họ muốn... biến con người thành những tạo vật mau nước mắt, ủy mị, tẻ nhạt, cầu xin được làm nô lệ... Thế nhưng lấy đi thói vị kỉ khỏi trái tim con người là đánh cắp những nguyên tắc sống của anh ta, làm mất đi hương thơm và vị mặn nơi bản ngã của anh ta".
Những vấn đề nhân bản quá ư phức tạp để có thể đòi hỏi những lời giải giản đơn, ngay cả công xã nông dân ở Nga mà Herzen đã từng tin tưởng sâu sắc như một "lối thoát sáng sủa", bởi vì ông đã tin rằng những người nông dân Nga ít nhất cũng không bị nhiễm những thói xấu méo mó của đô thị như là giai cấp vô sản và tư sản châu Âu. Ông chỉ ra rằng công xã nông dân cũng không giữ nổi nước Nga khỏi tính cách nô lệ: "Xin đừng quên rằng con người ưa thích tuân phục, nó luôn luôn tìm đến dựa dẫm vào cái gì đó, núp sau một thứ gì đó, trong nó không có bản sắc kiêu hãnh của thú dữ. Con người lớn lên trong sự phục tùng gia đình, bộ tộc; các nút thắt của đời sống xã hội ràng buộc nó theo cách càng phức tạp, khắc nghiệt hơn, thì nó càng rơi vào tình trạng nô lệ nhiều hơn; người ta đã bị đè nén bởi tôn giáo - thứ đã siết họ lại do tính hèn nhát của họ, và bởi những người cao tuổi nhất - thứ đã siết họ lại theo tập quán."
Tự do không phải là sở thích của số đông mà chỉ là sở thích của những người đã được giáo dục. Ông nhận xét: "Sự phụ thuộc của con người vào môi trường, vào thời đại là chuyện không còn ai hoài nghi nữa... Môi trường, nơi con người sinh ra và thời đại mà con người sống trong đó, sẽ lôi kéo con người tham gia vào những gì xảy ra xung quanh anh ta, tiếp tục làm những gì mà những người cha đã khởi đầu; một cách tự nhiên anh ta quyến luyến với những gì vây quanh anh ta, bản thân anh ta không thể nào lại không phản ánh thời đại của mình, môi trường sống của mình. Thế nhưng chính trong hình tượng của sự phản ánh hiện ra tính độc đáo. Phản ứng đối kháng lại được kích thích" nên trong con người đối với những thứ xung quanh, ấy là câu trả lời của bản ngã anh ta đáp lại ảnh hưởng của môi trường. Câu trả lời ấy có thể đầy những cảm thông cũng như đầy những đối kháng. Tính độc lập về nhân cách của con người cũng là chân lí và thực tại hiển nhiên, không khác gì sự phụ thuộc của con người vào môi trường, điểm khác biệt là nó ở trong quan hệ ngược lại với môi trường: càng nhiều ý thức thì tính độc đáo càng lớn; càng kém ý thức thì sự ràng buộc với môi trường càng chặt chẽ hơn, môi trường càng nuốt mất bản ngã nhiều hơn."
Thế hệ thanh niên cách mạng "mới" ở nước Nga những năm 60 đã tấn công gay gắt tất cả "những người của năm 40" và đặc biệt là nhắm vào Herzen, người mà họ đánh giá là đại diện xuất chúng nhất và ghê gớm nhất. Những nhà cách mạng mới đầy hung bạo đã đả kích ông vì tình yêu luyến tiếc phong cách sống cũ xưa, vì ông là nhà quý tộc, giàu có, sống đầy đủ tiện nghi, và ngôi ở London mà quan sát từ xa cuộc đấu tranh cách mạng của nước Nga, vì ông thuộc thế hệ chỉ đơn thuần nói chuyện ở các phòng khách, rồi suy tưởng và triết lí, trong khi khắp xung quanh họ là tình cảnh bẩn thỉu và khốn khổ, rét mướt và bất công. Họ trách cứ ông đã không tìm kiếm sự cứu rỗi trong một công việc lao động chân tay nghiêm chỉnh nào đó - như đốn cây hay đóng giày, hay làm việc gì đó "cụ thể" để đồng hóa bản thân mình với quần chúng đang đau khổ, thay cho việc nói chuyện không d??