Sách này cũng có thể lấy tựa là Ấn Độ huyền bí, vì thực sự là nó đê cập đến những nét huyền bí là vì cái tính cách thiêng liêng, cao quý của nó. Thông thường, người ta không ai muốn phô bày trước mắt mọi người những gì mà họ cho là thiêng liêng quí báu nhất. Một bản năng trong tiềm thức xui khiến họ phải ẩn giấu những điều ấy ở nơi sâu kín nhất của tâm hồn. Và nếu họ không thể che giấu tất cả mọi người, thì họ cũng chỉ tiết lộ cho một số rất ít người cùng chung lý tưởng mà thôi.
Đó là nói về trường hợp riêng biệt của một người, của từng cá nhân. Đối với một dân tộc, một quốc gia cũng vậy. Một dân tộc cũng nghe theo tiếng nói của bản năng mà ẩn giấu những gì thiêng liêng quí báu nhất của mình sau một tấm màn bí mật hoàn toàn. Và đó là trường hợp của xứ Ấn Độ. Những gì thiêng liêng nhất của họ cũng là những gì mà họ cố giữ bí mất nhất, không thể tiết lộ ra ngoài cho những kẻ thế nhân phàm tục.
Nhưng sự bí mật, ẩn giấu vẫn luôn kêu gọi sự tìm tòi, khám phá của người có chí nguyện sưu tầm và học hỏi. Trong Thánh kinh có câu: “Ngươi hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở; ngươi hãy tìm, rồi ngươi sẽ gặp.” Đối với những ai là người có đủ sự kiên gan bền chí, tìm kiếm với hết cả tâm hồn, với một ý chí mãnh liệt, thì tấm màn bí mật kia có ngày cũng sẽ từ từ vén lên.
Ông Paul Brunton, tác giả quyển sách này, là người có cái ý chí đó. Nhưng trước khi đạt được mục đích, ông đã phải trải qua những sự khó khăn không biết là dường nào! Vì ở Ấn Độ cũng như ở các xứ khác, người ta chỉ tìm thấy sự chân thật sau khi đã gạn lọc, chiến đấu và loại bỏ những gì là hư dối bên ngoài. Người đi tầm đạo phải tự vạch lấy một con đường sau khi đã gặp phải rất nhiều những tay pháp sư, phù thuỷ, đạo sĩ, thuật sĩ… đủ hạng và mọi trình độ.
Những người này đã tập luyện tinh thần và thể xác của họ đến một mức độ phi thường. Nhiều người trong số đó đã khai thác và sử dụng được những sức mạnh mà người ta gọi là năng lực thần bí. Đó là một hạng người lý thú đáng được sự chú ý của các nhà bác học chuyên khảo cứu về những hiện tượng tâm linh. Nhưng họ chưa phải là hạng người đã được chân lý. Họ chưa phải là hạng người tiêu biểu cho đời sống tâm linh thật sự. Họ cũng chưa phải là những người tiêu biểu cho xứ Ấn Độ huyền bí và linh thiêng mà ông Brunton muốn tìm tòi, khám phá.
Ông Brunton đã gặp họ trên lộ trình của ông, đã chú ý và phỏng vấn họ. Nhưng ông đã vượt khỏi hạng người này và tiến xa hơn nữa. Cái mà ông muốn gặp là sự sinh hoạt tâm linh, trong cái sắc thái tinh hoa, cao thượng nhất của nó, và sau cùng ông cũng đã gặp.
Ở một nơi hẻo lánh hoang vu, một nơi thâm sơn cùng cốc, thường là nơi ẩn trú của những bậc thánh nhân hiền triết Ấn Độ, ông Brunton đã gặp một hiền giả có thể tiêu biểu cho những gì mà xứ Ấn Độ vẫn sùng bái, tôn thờ như điều thiêng liêng nhất của họ. Nhưng nếu Đức Maharichi, hay bậc Đại Hiền, là người đã hấp dẫn ông nhiều nhất, thì ngài cũng không phải là người duy nhất thuộc về hạng người đặc biệt đó. Ở những miền núi cao rừng rậm của xứ Ấn Độ ngày nay, người ta còn có thể tìm gặp được một vài người như thế, nhưng phải nói là rất ít. Chính những người đó mới là tiêu biểu cho cái quốc hồn quốc tuý của xứ Ấn Độ, và tiêu biểu cho sự huyền bí của Ấn Độ mà ông Brunton diễn tả trong quyển sách này của ông.
***
Một buổi chiều, tôi nhìn thấy một người khách lạ bước vào tịnh xá với một điệu bộ trầm tĩnh và ngồi xuống sàn gạch gần bên giường của đức Maharichị Người ấy có một màu da đem sậm và một gương mặt rất sáng sủa tế nhị. Y vẫn im lặng không nói gì, nhưng đức Maharichi liền tiếp đón y bằng một nụ cười thân mật.
Cái phong độ cốt cách của người này ghi một ấn tượng sâu xa trong lòng tôi. Y có vẻ giống như một pho tượng Phật tạc trong tảng đá, gương mặt y biểu lộ một sự bằng an, trầm lặng khác thường. Khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau, y nhìn thẳng vào mặt tôi một hồi lâu làm cho tôi ngượng và day mặt đi chỗ khác. Suốt buổi chiều hôm đó, y không thốt ra một lời nào cả.
Qua ngày hôm sau, tôi lại gặp y trong một trường hợp bất ngờ. Tôi vừa rời khỏi tịnh xá trở về chòi để nấu nước pha trà, vì người nô bộc của tôi đã đi vắng ngoài chợ. Khi vừa mở khóa cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào thì có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im lặng của nó và một tiếng huýt nhỏ như sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một con rắn ở trong chòi. Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hãi và không biết phải là thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nhìn con rắn không chớp mắt, và nó cũng vừa phùng mang vừa giương hai mắt nhìn lại tôi.
Sau cùng, tôi định tĩnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi tìm một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy dập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nhìn yên lặng của y làm cho tôi bớt sợ hãi và lấy lại sự bình tĩnh. Y đến gần chòi tranh, với cái nhìn thoáng qua y đã thấu rõ tình hình và thản nhiên bước vào chòi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ý đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi, vì mặc dầu y không có khí giới y vẫn đưa hai tay về phía con rắn.
Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài hình mũi chĩa thò ra thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia. Trong khi đó có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vã chạy tới. Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó trong khi con rắn cuối đầu sát đất và nằm im lặng!
Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến và làm cho nó giựt mình. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó nhanh nhẹn bò ra khỏi chòi tranh và trong khoảng khắc đã biến mất dạng trong khu rừng rậm.
- Đó là một con rắn hổ mang!
Một trong hai người mới đến sau bình phẩm. Người này là một thương gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm đạo viện để chiêm ngưỡng đức Tôn Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn không một chút sợ hãi. Y bèn giải thích:
- À, đó là đạo sĩ Ramiah, y là một trong những đệ tử cao cấp nhất của đức Maharichị Y là một người có bản lĩnh khá lắm.
Tôi không thể trò chuyện với người Yogi này vì tôi nhận thấy rằng y giữ giới tịnh khẩu, ngoài ra những giới hạnh khác nữa thuộc về phần kỷ luật đặc biệt của y, và cũng bởi vì y là người thuộc về địa phương nói tiếng thổ ngữ Telugu, chứ không biết tiếng Anh. Tôi cũng nghe nói rằng y là một người rất ẩn dật và kín đáo, thường không chịu giao thiệp với ai, rằng y ở một cái nhà nhỏ xây bằng gạch dưới bóng mát của một tảng đá khổng lồ bên cạnh bờ ao, và y là đệ tử của đức Maharichi đã mười năm nay.
Tuy nhiên, sau đó không lâu, sự cách biệt giữa chúng tôi đã được lấp bằng. Tôi gặp y trên bờ ao khi y cầm một cái bình nhỏ bằng đồng xuống ao để múc nước. Dáng điệu ung dung tự tại của y làm cho tôi thích thú, lúc đó tôi sẵn có đem theo máy ảnh trong túi, tôi mới yêu cầu y, bằng cách ra dấu, để cho tôi chụp một bức ảnh. Y không phản đối, và sau khi chụp ảnh y cũng đi theo tôi về chòi. Tại đây chúng tôi thấy một người đệ tử già của đức Maharichi, nay đã bảy mươi lăm tuổi, làm công chức sở Hỏa Xa về hưu, ngồi đợi ngoài cửa chờ tôi về. Cũng do sự tình cờ, tôi được biết ông lão này biết tiếng Telugu khá giỏi cũng như tiếng Anh và ông sẵn lòng làm thông ngôn cho chúng tôi, tuy rằng chỉ nói bằng bút đàm. Người đạo sĩ không thích nói nhiều và không muốn bị ai phỏng vấn, nhưng tôi tìm cách gợi chuyện để biết thêm vài điều về cuộc đời y.
Đạo sĩ Ramiah đã trên bốn mười lăm tuổi, có sở hữu đất ruộng tại tỉnh Nellore, và mặc dầu y không chính thức xuất gia, y vẫn để cho gia đình y cai quản đồn điền tài sản để cho y có thời giờ theo đuổi việc học Đạo. Y có một nhóm đệ tử riêng ở tỉnh Nellore, nhưng mỗi năm một lần, y rời khỏi tỉnh này để viếng đức Maharichi, và ở lại đạo viện của Ngài mỗi lần đôi ba tháng.
Trong thưở thiếu thời, y đã từng đi châu du khắp miền Nam Ấn để tìm thầy học Đạo. Y đã học với nhiều vị danh sư và phát triển được vài quyền năng đặc biệt. Phép luyện khí công và tham thiền y đều thực hàng được rất dễ dàng. Dường như y đã vượt bực các danh sư của y, vì y đã trải qua những kinh nghiệm thần bí mà các vị danh sư không thể giải thích được một cách thỏa đáng. Sau đó y tìm đến đức Maharichi, Ngài liền giải thích cho y nghe một cách đúng đắn, và giúp đỡ y thêm về phần tu luyện.
Đạo sĩ Ramiah cho tôi biết rằng y định đến ở trong hai tháng tại đạo viện, y có đem theo một người tiểu đồng, và y lấy làm vui lòng mà thấy có một người Âu chú trọng đến nền Minh Triết cổ truyền của Đông phương. Tôi đưa cho y xem một tờ tạp chí Anh ngữ có in hình ảnh, và y bình phẩm một cách lạ lùng về một bức ảnh trong đó:
- Chừng nào các nhà bác học thông thái ở phương Tây không còn tìm cách làm cho các động cơ chạy mau hơn những thứ máy móc mà họ đã có, và bắt đầu nhìn vào nội tâm của họ, thì chừng đó chủng tộc các anh có thể tìm thấy hạnh phúc chân thật và vững bền hơn. Anh có dám chắc rằng người Âu Tây các anh sẽ an phận và sung sướng hơn chăng, mỗi khi họ phát minh ra được một thứ máy móc mới lạ để giúp cho họ di chuyển mau chóng hơn...
Trước khi từ giã, tôi hỏi y về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉm cười và viết câu trả lời:
- Có gì mà phải sợ... Tôi đến gần nó với tấm lòng thành, không nuôi tư tưởng ác, và với một tình bác ái đối với tất cả chúng sinh.
Tôi nghĩ rằng chắc còn có điều gì ẩn dấu đằng sau những lời giải thích giản dị đó, nhưng tôi không hỏi gì thêm mà để cho y trở về nhà.
Trong những tuần lễ sau cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với nhà đạo sĩ Ramiah, tôi đã có dịp biết y nhiều hơn nữa. Chúng tôi thường gặp nhau hoặc ở chỗ đất trống chung quanh chòi, hoặc trên bờ ao, hoặc ở trước nhà ỵ Mối tình bằng hữu đã nảy sinh ra giữa chúng tôi, nhưng đó là một mối tình câm, không lời, và một hôm nó được biểu lộ bằng cử chỉ, khi người đạo sĩ đặt một bàn tay trên đầu tôi để ban ân huệ và siết chặt hai bàn tay tôi trong hai bàn tay của ỵ Ngoài ra vài câu bút đàm mà người đệ tử già dịch lại cho tôi nghe chúng tôi không ai nói với nhau một lời nào trong thời gian kết bạn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng giữa tôi và đạo sĩ Ramiah có một sợi dây liên lạc mật thiết, không thể nào cắt đứt đi được. Thỉnh thoảng tôi đi bách bộ chơi với y trong khu rừng rậm, có đôi lần chúng tôi cùng trèo lên sườn đồi giữa những tảng đá lớn dựng lên lởm chởm và đi một cáh rất vất vả mệt nhọc trên đường núi gồ ghề, nhưng dầu cho chúng tôi đi chơi đâu, bao giờ y cũng giữ một thái độ ung dung tự tại mà tôi không khỏi lấy làm cảm phục.
...
Mời các bạn đón đọc
Đông Phương Huyền Bí của tác giả
Paul Brunton.